Viết bài văn trình bày ý kiến về thú chơi tranh dân gian trong đời sống hiện đại lớp 7 bao gồm dàn ý chi tiết cùng 7 bài văn mẫu hay nhất được thầy cô biên soạn sẽ là tài liệu giúp các em hoàn thành tốt phần bài tập trong chủ đề trình bày ý kiến về vấn đề văn hóa truyền thống trong xã hội hiện đại. Mời các em tham khảo nhé.
Đề bài:Viết bài văn trình bày ý kiến về thú chơi tranh dân gian trong đời sống hiện đại
Xem thêm:Viết bài văn trình bày ý kiến về vấn đề văn hóa truyền thống trong xã hội hiện đại
Tranh dân gian là gì?
Tranh dân gian là những tác phẩm nghệ thuật bình dân được tạo nên bởi những người nghệ sĩ chỉ quen thuộc với những công việc đồng áng mỗi ngày. Tuy nhiên những tác phẩm của họ lại đầy những tính sáng tạo độc đáo miêu tả về cuộc sống hàng ngày và những cảm nhận về thế giới xung quanh. Nghệ thuật tranh dân gian Việt Nam với bề dày lịch sử phát triển đã trở thành một phần không thể thiếu với người yêu thích hội họa nước nhà.
Chơi tranh là một trong những thú chơi lịch lãm và tao nhã của rất nhiều người không kể giàu nghèo. Trong đời sống của người Việt trước khi du nhập nền văn minh phương Tây thì tranh dân gian chiếm vị thế chủ đạo. Với loại tranh này, không chỉ những người địa vị cao trong xã hội mà cả tầng lớp bình dân đều có thể tham gia “chơi”.
Dàn ý viết bài văn trình bày ý kiến về thú chơi tranh dân gian trong đời sống hiện đại
1. Mở đầu:
– Giới thiệu vấn đề cần trình bày: thú chơi tranh dân gian trong đời sống hiện đại.
– Nêu lí do trình bày vấn đề.
2. Nội dung chính:
– Những thông tin đáng quan tâm về thú chơi tranh dân gian trong đời sống hiện đại:
- Tranh dân gian dần bị thay thế bởi tranh khảm, tranh sứ, tranh đá,…
- Song, vẫn có rất nhiều người đam mê, thích thú với tranh dân gian.
– Ý kiến của em về vấn đề được bàn:
- Tranh dân gian xuất hiện ở nhiều vùng miền: từ miền núi đến miền xuôi, từ nông thôn đến thành thị, từ Bắc vào Nam. Tranh dân gian được dùng cho nhiều mục đích: thờ cúng, chúc tụng, gửi gắm mong ước,…
- Chơi tranh dân gian là cách để chúng ta giữ gìn, kế thừa những giá trị văn hóa tốt đẹp của cha ông.
– Mong muốn của em và những giải pháp đề xuất:
- Cần tìm hiểu rõ ràng về nguồn gốc của tranh, tránh tranh giả, tranh sao chép.
- Cần có ý thức hơn nữa trong việc bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa mà cha ông dày công xây dựng.
3. Kết thúc:
Khái quát nội dung đã trình bày.
Viết bài văn trình bày ý kiến về thú chơi tranh dân gian trong đời sống hiện đại – Mẫu 1
Chơi tranh là một trong những thú chơi lịch lãm và tao nhã của rất nhiều người không kể giàu nghèo. Trong đời sống của người Việt trước khi du nhập nền văn minh phương Tây thì tranh dân gian chiếm vị thế chủ đạo. Với loại tranh này, không chỉ những người địa vị cao trong xã hội mà cả tầng lớp bình dân đều có thể tham gia “chơi”.
Điển hình và rộng rãi trong xã hội là phong tục chơi/treo tranh Tết. Dịp Tết, mỗi gia đình Việt trước kia đều dán vài tờ tranh Tết cho không khí Tết ùa vào trong nhà từ sau ngày ông công ông táo. Bên cạnh thú chơi tranh Tết, câu đối Tết cũng là một thú chơi tao nhã của người Việt, đặc biệt là các nhà nho và những người thích chữ nghĩa. Khác với hoành phi, câu đối được làm cố định khi trang trí trong nhà, câu đối Tết chỉ sử dụng mỗi năm một lần. Câu đối Tết thường mang những ý nghĩa như “cung chúc tân xuân”, mừng đất nước, mừng gia tộc… đặc biệt là những nội dung cụ thể cho hy vọng trong năm mới của gia chủ. “Câu đối đỏ” mang đến sinh khí mới ấm áp, cũng có giá trị trang trí như một bức tranh trong những ngày đón xuân mới.
Bước vào thời kỳ đổi mới, đời sống vật chất thay đổi từng ngày, no ấm hơn, giàu có hơn. Mỗi người cũng được tiếp cận nhiều hơn với những thành tựu của khoa học và công nghệ, được giao lưu nhiều hơn với những luồng văn hóa bên ngoài lũy tre làng. Xã hội hiện đại cũng đã đưa đến những thay đổi lớn trong đời sống tinh thần, đặc biệt là các hình thức giải trí. Những thú vui cũ, những trò chơi dân gian xưa đã dần được thay thế bằng các sản phẩm văn hóa tân thời. Hát karaoke trở nên phổ biến, các game show trên truyền hình hay game online đã thay cho các trò chơi dân gian của con trẻ như thả diều, nhảy ngựa, ô ăn quan, bịt mắt bắt dê… Và tranh dân gian xưa dường như cũng đã đi vào quên lãng. Thay vào đó là tranh hiện đại hoặc tranh khảm, tranh sứ, tranh kính, tranh đá… với những chất liệu đắt tiền hơn, cầu kỳ hơn.
Bên cạnh những yếu tố tích cực được mang lại từ những tiến bộ của khoa học công nghệ trong xã hội hiện đại, người dân cũng đang phải chịu nhiều sức ép từ mặt trái của cơ chế thị trường và quá trình toàn cầu hóa. Những tác động đó cũng hiện diện trong thú chơi tranh. Khác với lối chơi tranh dân gian giản dị và bình dân xưa, người chơi tranh hiện nay không nhiều nhưng lại có nhiều loại. Kẻ sang chơi tranh “xịn”, kẻ bình dân chơi tranh chép, tranh nhái, tranh giả cổ của cả tây lẫn ta. Cái được là biết thêm nhiều loại tranh mới ngoài tranh Đông Hồ và tranh Hàng Trống, còn cái mất là mất khả năng tư duy nghệ thuật truyền thống. Có thể bắt gặp ở nhiều nhà trọc phú hiện đại những biệt thự kiểu tây, nội thất chạm khảm kiểu ta, treo tranh chép của tây bên cạnh hoành phi câu đối giát vàng của ta… Điều đó cho thấy sự giàu có không đồng nghĩa với mỹ cảm nghệ thuật và tri thức.
Theo GS. Phan Huy Lê, Chủ tịch Hội Khoa học lịch sử Việt Nam, “Treo tranh dân gian trong ngày Tết đã từng là thú vui tao nhã, phong tục đẹp của người Việt Nam, trước đây hầu như không có nhà nào không treo tranh dân gian trong dịp Tết. Tuy nhiên, hiện nay để có thể mua được tranh Đông Hồ bày bán trên các con phố Hà Nội trở nên rất khó khăn, hoặc nếu có thì kỹ thuật và thẩm mỹ cũng rất kém do bị thương mại hóa”.
Nhưng dù có khá nhiều người bị choáng ngợp bởi các loại tranh ngoại nhập và hiện đại trong cái xô bồ, náo nhiệt của đời sống hiện nay nhưng vẫn còn những người giữ được thú chơi tranh dân gian. Đó chính là mảnh đất nhỏ còn sót lại để tranh dân gian bám rễ và tồn tại. Tuy nhiên, thú chơi tranh dân gian giờ đây lại có sự tinh tế và sự đầu tư kỹ lưỡng hơn của người chơi tranh. Vẫn là những bức tranh Tố nữ, Hứng dừa, Gà mẹ gà con, Tứ linh, Tứ quí… xưa, nhưng người chơi tranh ngày nay đã biến chúng thành những tác phẩm đắt giá bằng nhiều chất liệu cao cấp bền hơn, đẹp hơn, đắt tiền hơn chứ không phải chỉ in trên giấy bản, giấy dó như xưa.
Sự chuyển đổi chất liệu không làm mất đi vẻ đẹp của tranh dân gian truyền thống mà còn tạo cho chúng một hơi thở mới, một sức sống mới. Nhiều bức tranh dân gian được ghép bằng đá quí, thêu lụa hay in gốm… mang tâm hồn Việt Nam, cốt cách Việt Nam được khách hàng đặt mua với giá hàng nghìn đô-la. Đó chính là “đất sống” mới cho tranh dân gian. Nghệ nhân Nguyễn Đăng Chế đã nổi tiếng khá lâu ở làng tranh Đông Hồ cho biết: Ngoài những bức tranh truyền thống vẫn được in và bán cho khách du lịch, ông còn chế tác và bán được một mặt hàng khác là những khuôn in tranh. Khách hàng mua các mộc bản về treo ở nhà như những bức tranh khắc. Những người tìm mua các mộc bản là những người cầu kỳ, tỷ mỷ và khá am hiểu về dòng tranh dân gian Đông Hồ.
Ngày nay, trong sự phát triển ngày càng mạnh mẽ và đa dạng của các loại hình nghệ thuật mới, tranh dân gian không còn chiếm vị trí độc tôn như xưa nhưng đâu đó vẫn dành được sự mến mộ của những người yêu nghệ thuật dân tộc. Ngày Tết, bên cạnh mâm cỗ Tết, ta vẫn còn thấy mâm ngũ quả và những bức tranh dân gian Đông Hồ, Hàng Trống được treo trong nhiều gia đình. Đặc biệt, tranh dân gian Việt Nam vẫn luôn được các học giả, các nhà sưu tập đánh giá cao về giá trị nghệ thuật. Hy vọng rằng, vẻ đẹp của tranh dân gian sẽ mãi được các thế hệ người Việt Nam lưu giữ cho hôm nay và cho cả mai sau.
Viết bài văn trình bày ý kiến về thú chơi tranh dân gian trong đời sống hiện đại – Mẫu 2
Xưa, mùa xuân đến, các làng tranh truyền thống lại nhộn nhịp in, quẩy tranh đi bán khắp nẻo, mang sắc Tết đến từng nhà. Nay, nét đẹp ấy thưa vắng dần. Đó là lý do mà Phó Giáo sư, Tiến sĩ, họa sĩ Trang Thanh Hiền (Trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam) tiếp tục hành trình nghiên cứu, làm dày thêm cuốn “Tranh Tết – Nét tinh hoa truyền thống Việt” để khơi dậy thú chơi tranh Tết dân gian trong đời sống hiện đại.
Đã thực hiện cuốn “Tranh Tết – Nét tinh hoa truyền thống Việt” từ năm 2016, khi triển khai dự án “Cùng bé sáng tạo” với các hoạt động tổ chức sáng tạo mặt nạ vui Tết Trung thu và khám phá tranh Tết cho trẻ em, nhưng họa sĩ Trang Thanh Hiền muốn mở rộng hơn đối tượng độc giả và người yêu tranh Tết dân gian.
“Những bức tranh không chỉ thể hiện nét tinh hoa trong ngón nghề, sự tinh tế trong thẩm mỹ, mà còn là thông điệp và niềm ước vọng của dân gian về năm mới. Chúng thích hợp với mọi nhà, mọi hoàn cảnh trong dịp Tết đến, xuân về”, họa sĩ Trang Thanh Hiền bày tỏ.
Và vì thế, cuốn “Tranh Tết – Nét tinh hoa truyền thống Việt” ra mắt nhân dịp Xuân Canh Tý 2020 này, do Nhà Xuất bản Thế giới và Thái Hà Books ấn hành, không chỉ cung cấp kiến thức phổ thông về các dòng tranh dân gian Việt Nam, mà còn giống như một giai phẩm Tết, với ăm ắp thông tin mới về các dòng tranh hiện nay, cùng những bức tranh dân gian được đặt hàng nghệ nhân để độc giả thưởng thức.
Với 252 trang, cuốn sách đưa người đọc tìm hiểu về 5 dòng tranh dân gian thường sản xuất tranh Tết là Đông Hồ, Kim Hoàng, Hàng Trống ở châu thổ sông Hồng; làng Sình ở Thừa Thiên – Huế và tranh kiếng Nam Bộ. Không chỉ giới thiệu những nét cơ bản, tác giả còn phân tích những bước thăng trầm, từ đó cho thấy sự dịch chuyển và ảnh hưởng lẫn nhau giữa các dòng tranh.
Bên cạnh đó, họa sĩ Trang Thanh Hiền cũng đặt các dòng tranh dân gian của Việt Nam trong dòng chảy chung của nghệ thuật dân gian châu Á để phân tích sự đặc sắc mà cha ông khởi tạo, gửi gắm trong tranh, đặc biệt khi tranh Tết trở thành lối sống, thú chơi của người Việt.
Đáng chú ý là trong ấn bản năm 2020 này, họa sĩ Trang Thanh Hiền đã bổ sung mảng tranh dân gian quan trọng ở phía Nam – nghệ thuật tranh kiếng Nam Bộ, tạo nên một cái nhìn tổng thể về tranh Tết dân gian Việt Nam.
“Tuy khác biệt hoàn toàn với chất liệu ở 4 dòng tranh Đông Hồ, Hàng Trống, Kim Hoàng, làng Sình, tranh kiếng Nam Bộ vẫn có những nét tương đồng trong mẫu hình, tính tư duy và kỹ thuật thể hiện”, tác giả chia sẻ.
Tìm hiểu thêm về nghệ thuật tranh kiếng Nam Bộ, theo họa sĩ Trang Thanh Hiền, độc giả sẽ nhìn thấy ở đó tính tiếp cận với nghệ thuật hiện đại, sự thích ứng với đời sống khá cao. Nhân năm Canh Tý, cuốn sách còn có thêm phần “Con chuột trong tranh Tết của người Việt”, với những bàn luận thú vị về con giáp biểu trưng năm nay trong tranh dân gian.
Với lối viết đơn giản, ngắn gọn, gần gũi, đi cùng với những hình ảnh tranh sinh động, tác giả trang bị cho người đọc những kiến thức cơ bản về 5 dòng tranh dân gian Việt Nam. Theo họa sĩ Kim Duẩn, mọi đối tượng độc giả sau khi tiếp cận đều hiểu và phân biệt được nét đặc trưng của mỗi dòng tranh.
Chẳng hạn, tranh dân gian Đông Hồ in theo lối chồng bản, trong khi các dòng tranh Hàng Trống, Kim Hoàng, làng Sình không chỉ in mà còn sử dụng kỹ thuật tô tranh. Màu nền giấy của các dòng tranh cũng khác biệt, như tranh Hàng Trống thường in trên giấy trắng, tranh Kim Hoàng thể hiện trên nền rực rỡ (đỏ, cam), tranh Đông Hồ in trên giấy óng ngà…
Tuy chủ thể trong tranh khác nhau, nhưng hầu hết tranh Tết được sản xuất từ những làng nghề này đều truyền đi thông điệp về sự đoàn tụ, sung túc, đủ đầy trong năm mới.
Mỗi ấn phẩm đặc biệt của cuốn sách lần này còn có một bức tranh dân gian được in thủ công và vẽ tay trên chất liệu giấy dó dành tặng độc giả. Các bức tranh do nghệ nhân Nguyễn Hữu Quả (làng tranh dân gian Đông Hồ), nghệ nhân Trần Quốc Đức (làng tranh dân gian Kim Hoàng), nghệ nhân Kỳ Hữu Phước (làng tranh dân gian Sình)… thể hiện. Qua đó, tác giả và đơn vị xuất bản mong muốn độc giả cảm nhận chân thật nhất về tranh Tết dân gian Việt Nam, từ đó thêm yêu thích và có hứng thú chơi tranh.
Viết bài văn trình bày ý kiến về thú chơi tranh dân gian trong đời sống hiện đại – Mẫu 3
Trong kho tàng di sản văn hóa Việt Nam, tranh dân gian giữ một vị trí quan trọng, phản chiếu đời sống tinh thần của người dân. Không chỉ đa dạng về mẫu mã, thể loại, các đề tài trong tranh dân gian cũng vô cùng phong phú. Điều này thể hiện rõ trong các dòng tranh: Kim Hoàng, Hàng Trống, Đông Hồ, làng Sình… Mỗi dòng tranh có những đặc trưng và cũng có những thăng trầm riêng. Tranh Kim Hoàng thất truyền từ năm 1945 do nạn lụt và đói. Tranh Hàng Trống thì hiện chỉ có duy nhất gia đình nghệ nhân Lê Đình Nghiên còn giữ nghề. Tranh Đông Hồ và làng Sình dẫu vẫn còn nhiều gia đình giữ được nghề xưa nhưng không thể vang bóng như thuở hoàng kim. Trong bối cảnh kinh tế-xã hội hiện đại, tranh dân gian đứng trước nguy cơ mai một và thất truyền bởi nhu cầu chơi tranh, sử dụng tranh không còn phổ biến như xưa.
Làm thế nào để những dòng tranh dân gian được “hồi sinh”, đó cũng chính là trăn trở của các nghệ sĩ nhóm Latoa Indochine. Nhóm này được thành lập tháng 6-2022, hội tụ những họa sĩ có cùng đam mê, tâm huyết với sơn mài truyền thống và văn hóa dân gian với các tên tuổi quen thuộc trong giới nghệ thuật như: Lương Minh Hòa, Nguyễn Văn Phúc, cùng sự cộng tác kỹ thuật của các nghệ sĩ: Nguyễn Mạnh Hà, Hoàng Đình Duy, Nguyễn Trọng Khang, Phạm Huy Tuấn, Đinh Quang Hùng, Nguyễn Văn Điện.
“Tranh dân gian đã trải qua những thăng trầm, đó cũng là nguồn cảm hứng bất tận để chúng tôi nghiên cứu và làm mới nó. Sau nhiều nghiên cứu, thử nghiệm, chúng tôi đã tìm ra giải pháp, đó là chuyển thể tranh dân gian sang chất liệu sơn mài khắc (kết hợp giữa sơn mài và khắc). Thật may là nhiều họa sĩ trẻ rất quan tâm đến dự án này, đó là điều khiến tôi rất hạnh phúc bởi tôi nhìn thấy những người kế cận tiếp nối con đường di sản của cha ông”, ông Phạm Ngọc Long, Chủ tịch Latoa Indochine chia sẻ.
5 năm nghiên cứu và 1 năm thực hành, các nghệ sĩ của Latoa Indochine đã “trình làng” trước công chúng hàng trăm tác phẩm tranh dân gian trên chất liệu sơn mài khắc. Trong gần 100 tác phẩm giới thiệu tại Triển lãm “Con đường” ở Bảo tàng Hà Nội lần này, phần lớn được sáng tác dựa trên những đề tài quen thuộc của các dòng tranh dân gian Hàng Trống, Đông Hồ và Kim Hoàng như các bức tranh: “Thần Kê”, “Đám cưới chuột”, “Cá chép ngắm trăng”, “Ngũ hổ”…
Ngoài các bức tranh lấy cảm hứng từ tranh dân gian, còn có một số bức tranh khác như: “Trúc Lâm đại sĩ xuất sơn đồ” và “Hương Vân Đại Đầu Đà” lấy cảm hứng từ Phật giáo và bức tranh chân dung danh nhân Nguyễn Trãi (được chuyển thể dựa trên bức tranh về Nguyễn Trãi chất liệu bột màu trên nền vải của tác giả P.D.TUE vẽ năm 1917) cũng cho thấy sự dày công và tâm huyết của các nghệ sĩ. Họa sĩ Lương Minh Hòa cho hay: “Khó khăn nhất khi chuyển thể tranh dân gian từ chất liệu giấy sang sơn mài khắc là giữ được nét, nếu trau chuốt quá thì lại là sản phẩm mỹ nghệ, còn lem nhem quá thì cũng không được. Vậy nên chúng tôi cố gắng hài hòa chất liệu để làm sao có thể giữ được tinh thần, hồn cốt của tranh dân gian, không làm mất đi sự kết nối từ chất liệu giấy sang sơn mài khắc”.
Với cách thể hiện đặc biệt mới mẻ, nhóm Latoa Indochine mang đến cho những người yêu nghệ thuật một góc nhìn thú vị, đầy sáng tạo về dòng tranh truyền thống của dân tộc, đồng thời, góp phần phát triển một nét văn hóa xưa lên tầm cao mới, hòa quyện giữa dân gian bình dị trong dòng chảy hiện đại, cấp tiến.
Có thể nói, việc chuyển hóa tranh dân gian vẽ, in trên giấy sang chất liệu sơn mài khắc đã mở ra hướng đi mới trong việc bảo tồn và phát huy giá trị của tranh dân gian. Vẫn là những chủ đề, đề tài quen thuộc của tranh dân gian nhưng với kỹ thuật thể hiện nghệ thuật sơn mài và khắc (chạm khắc, dát vàng, dát bạc…), các nghệ sĩ đã “khoác” thêm “chiếc áo mới” cho dòng tranh dân gian mà không làm mất đi hồn cốt của tranh dân gian cũng như những rung cảm trước tầng sâu của truyền thống thẩm mỹ Việt.
Theo họa sĩ, nhà nghiên cứu Phan Ngọc Khuê: “Những bức tranh sơn mài dát vàng, dát bạc tạo được các mảng màu đối lập và bắt sáng, làm cho các bức tranh dân gian mang một hình ảnh mới sang trọng và giá trị hơn. Các hình ảnh trong tranh sơn mài khắc đều được thể hiện sắc nét, có chiều sâu và khi quan sát kỹ sẽ thấy tầng tầng lớp lớp màu được mài rất tỉ mỉ. Tất cả những điều đó khiến tranh dân gian trở nên đẹp hơn, hiện đại, sang trọng hơn, giá trị văn hóa-nghệ thuật cũng được nâng lên một tầm cao mới. Đây thực sự là một dự án bảo tồn và phát huy tranh dân gian có ý nghĩa, cần được nhân rộng và phát triển”.
Ông Trương Quốc Bình, Ủy viên Hội đồng Di sản văn hóa quốc gia đánh giá: Đây là sáng kiến rất đáng ghi nhận, vừa phát huy được giá trị của nghệ thuật truyền thống là sơn mài, sơn khắc, vừa phát huy được tinh hoa của tranh dân gian. Nếu không có niềm đam mê vốn cổ thì không thể thực hiện được.
Latoa là dự án bảo tồn, phục hồi tranh dân gian sơn mài khắc truyền thống Việt Nam. Triển lãm “Con đường” cũng là sự khởi đầu Dự án “Bảo tồn tranh dân gian Việt Nam” của Latoa Indochine, với mong muốn tiếp nối con đường cha ông. Đây là hành trình mà nhóm nghệ sĩ đã ấp ủ từ lâu. Một hành trình được xây dựng bởi những con người yêu, trân quý nét đẹp văn hóa dân tộc.
Viết bài văn trình bày ý kiến về thú chơi tranh dân gian trong đời sống hiện đại – Mẫu 4
Không phải là thú chơi sang trọng của những nhà sưu tập, những người thuộc giới “thượng lưu”, trong đời sống của người Việt trước khi hội họa châu Âu du nhập tới, tranh dân gian chiếm vị thế chủ đạo. Sự chuyển mình của tranh Đông Hồ cũng như của các loại hình mỹ/nghệ thuật dân gian nói chung trong bối cảnh mới thắp lên những hy vọng về các giá trị văn hóa của cha ông được lưu (và) truyền không chỉ cho con cháu mà với cả bạn bè quốc tế gần xa. Dịp Tết đến, mỗi gia đình dán vài tờ tranh Tết để hơi Xuân ùa vào nhà từ sau ngày ông công ông táo.
Trong xã hội hiện đại, những thú vui cũ, những trò chơi dân gian xưa đã dần được thay thế bằng các sản phẩm văn hoá tân thời. Karaoke thay cho hát đối đáp giao duyên, các game show hay game online dễ gây nghiện (như) đã thay cho các trò chơi dân gian của con trẻ như thả diều, nhảy ngựa, ô ăn quan, bịt mắt bắt dê v.v. Tranh dân gian xưa dường như cũng như đã đi vào quên lãng bởi tranh hiện đại hoặc tranh bằng những chất liệu đắt tiền hơn, cầu kỳ hơn: đá quý, vàng, bạc, xà cừ… Cũng có thể dễ dàng gặp tranh chép của tây bên cạnh hoành phi, câu đối giát vàng ở nhà vài người mới giàu. Sự giàu có không phải bao giờ cũng đi cùng với mỹ cảm nghệ thuật và tri thức.
Nhưng dù có khá nhiều người bị choáng ngợp bởi các loại tranh ngoại nhập và hiện đại trong cái xô bồ, náo nhiệt của đời sống hiện nay, vẫn còn những người giữ được thú chơi tranh dân gian. Đó chính là “mảnh đất nhỏ còn sót lại” để tranh dân gian bám rễ và tồn tại. Đó chính là “đất sống” mới cho tranh dân gian. Với những nỗ lực của các nghệ nhân, những người có tâm huyết với nghệ thuật truyền thống, các dòng tranh dân gian đã dần được nhớ lại và bắt đầu có sự hồi sinh. Có thể thấy rõ điều đó từ làng Hồ.
Hỡi cô lưng thắt bao xanhCó về làng Mái với anh thì vềLàng Mái có lịch có lềCó sông tắm mát có nghề in tranh
Làng Mái trong câu ca chính là làng Đông Hồ (nay thuộc xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, Bắc Ninh). Làng Hồ từ xưa đã nổi tiếng khắp trong Nam, ngoài Bắc về nghề in tranh. Thời kỳ thịnh đạt, khách theo đường bộ từ Bắc Ninh về, từ Hà Nội sang, khách từ miền Nam, từ Thanh – Nghệ theo đường sông lên bến đò Hồ để “ăn tranh”. Họ nhắc nhau:
Dù ai buôn bán trăm nghềNhớ đến tháng chạp thì về buôn tranh
Làng Đông Hồ xưa có đến 17 (chi) dòng họ người dân làm nghề tranh. Dòng họ Nguyễn Đăng có đến 22 đời kế tiếp làm tranh. Gần đến dịp Tết là chợ tranh Đông Hồ lại tấp nập kẻ bán người mua. Tranh treo la liệt trong đình, ngoài bãi. Tranh bày trên chiếu, tranh treo trên dây, tranh còn được bán ngay tại nhà cho những khách quen. Năm 1938, nghệ sĩ nhiếp ảnh Võ An Ninh đã lặn lội sang làng Hồ và đã chụp bức ảnh để đời có nhân vật là hai cô thiếu nữ răng đen bán tranh ở chợ tranh nơi cửa đình. Hơn 80 năm đã qua kể từ bức ảnh đó, cùng với thế cuộc, tranh Đông Hồ hôm nay đã mang những chuyển động mới của làng nghề dân gian trong thời hiện đại.
Điều khác biệt của tranh làng Hồ, chỉ có ở làng Hồ mà không có ở làng tranh nào khác, là được in trên giấy điệp. Vỏ con điệp (một loại giáp xác ở biển) được đem nung rồi tán mịn. Chất bột vỏ điệp này được hoà với hồ loãng rồi quết lên giấy dó hoặc giấy vỏ dâu tạo thành nền tranh óng ánh mà ấm áp trên lớp giấy xốp dễ hút “no” màu. Đông Hồ còn đặc sắc về cách in tranh. Tranh Hàng Trống và tranh Kim Hoàng được in nét rồi người làm tranh tô vờn màu trực tiếp bằng bút lông, còn tranh Đông Hồ được in theo phương pháp dùng bản gỗ in chồng tách màu – một bức tranh phải qua 4 – 5 lần in nét và các bản màu khác nhau. Màu in tranh cũng lấy từ thiên nhiên: sỏi son cho màu đỏ, lá chàm cho màu xanh, hoa hoè cho màu vàng tươi, than lá tre cho màu đen để viền nét… Trên mỗi bức tranh có sự kết tinh tri thức dân gian về đồ họa, về màu sắc, về cách thể hiện những chủ đề mang tính triết lý trong tư duy của người Việt. Các công việc tạo mẫu, khắc ván, làm giấy điệp trên nền giấy dó, chọn và chế năm màu sắc cơ bản (xanh, trắng, đỏ, vàng, đen) từ nguyên liệu tự nhiên, đến các dụng cụ và cả những thao tác in tranh đều là sự tích lũy kinh nghiệm, đúc kết tri thức qua nhiều thế hệ.
Đề tài của tranh làng Hồ rất phong phú, ngoài những chủ đề quen thuộc của loại tranh thờ: ông Công ông Táo; tranh các vị anh hùng trong lịch sử: Thánh Gióng, Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Ngô Quyền, Đức Thánh Trần; tranh truyện cổ tích: Sơn Tinh -Thuỷ Tinh, Thạch Sanh cứu công chúa; tranh trang trí: Tố nữ, tứ quý (bốn mùa xuân – hạ – thu – đông)… Cuộc sống làng quê với những phong tục tập quán, những cảnh sinh hoạt đời thường của người nông dân cần cù chất phác dưới con mắt và bàn tay của những nghệ nhân Đông Hồ tài hoa, qua những nét khắc tinh xảo, qua những mảng màu tươi sáng bỗng trở nên lung linh, sinh động, đáng yêu: mục đồng (chăn trâu thổi sáo), thả diều, đánh đu, đánh vật, bịt mắt bắt dê, hứng dừa, đại cát (cậu bé ôm gà trống), lợn ăn khoai môn, đàn gà… Đôi khi lại gặp cái nhìn hóm hỉnh, sâu sắc về nhân tình thế thái ở tranh đánh ghen, đám cưới chuột… Mỗi bức tranh đều mang nhiều lớp ý nghĩa, phản ánh nhiều khía cạnh nhân sinh. Bức tranh trên giấy điệp vẽ nên cả tâm hồn bình dị và khát vọng của người nông dân Việt về một cuộc sống thanh bình, sinh sôi, sung túc. Người ta mua tranh Đông Hồ về treo trong những ngày đón xuân như mang về cho cả gia đình niềm hy vọng tốt đẹp trong năm mới:
Mua tờ tranh điệp tươi màuMua đàn gà lợnđua nhau đẻ nhiều.
Cùng với khổ tranh “cổ điển” 26 x 37 cm được lồng trong khung cho dễ treo thay vì dán lên vách như xưa, tranh được in với nhiều kích cỡ khác để đưa lên mành tre để treo và cũng có thể cuộn lại cho du khách hào hứng mang theo kỷ niệm. Tranh được đặt lên post card, đặt lên sổ, đặt lên lịch (và rẻ thôi) cho các em học sinh, sinh viên vui vẻ tặng nhau những tâm tư ý nhị… Khuôn tranh được khắc dương bản để khách có thể mua về, vừa như tranh vừa như một “hiện vật” của làng nghề. Tranh Đông Hồ nay được phổ biến ở một thị trường khác, hẹp hơn nhưng nhiều hứa hẹn. Đó là thị trường những sản phẩm văn hoá dân gian phục vụ cho khách du lịch. Những năm gần đây, làng Hồ đã là điểm đến của nhiều đoàn du khách.
Nghề làm tranh dân gian Đông Hồ vẫn được thấy như hiện nay là do những cố gắng kiên trì của các thế hệ nghệ nhân. Họ đã và đang giữ vai trò “chủ lực” trong việc bảo vệ, hồi sinh và phát huy giá trị dòng tranh dân gian này. Các gia đình nghệ nhân cố gắng truyền lại nghề cho con, cháu. Họ cũng cố gắng đa dạng hóa các sản phẩm và tìm cách quảng bá giới thiệu sản phẩm của mình. Nhưng để những nỗ lực đó không còn lẻ loi đang đòi hỏi cần có sự bảo vệ và hỗ trợ khẩn cấp từ các cấp, các ngành, cả trong nước và quốc tế. Hơn thế nữa, mỗi bức tranh Đông Hồ không chỉ là một sản phẩm hàng hóa cần bán để thu lãi sau khi trừ đi những chi phí in tranh mà còn phải coi đó là một di sản văn hóa của dân tộc, mang những thông điệp của văn hóa Việt Nam đến với bạn bè quốc tế và truyền lại cho đời sau. Mỗi nghệ nhân cũng cần được coi như một “tài sản” của nền văn hóa dân tộc, cần được trân trọng để có chính sách đãi ngộ thỏa đáng và yêu cầu truyền thụ lại tinh hoa cho các thế hệ kế tiếp trong một tầm nhìn dài hạn.
Viết bài văn trình bày ý kiến về thú chơi tranh dân gian trong đời sống hiện đại – Mẫu 5
Bài nói trình bày ý kiến về thú chơi tranh dân gian trong đời sống hiện đại
Trong buổi học Nói và nghe hôm nay, em xin trình bày quan điểm của mình về vấn đề: thú chơi tranh dân gian trong đời sống hiện đại. Kính mong cô cùng các bạn chú ý lắng nghe.
Mọi người thân mến, hiện nay, nước ta có 12 dòng tranh dân gian tiêu biểu: tranh Đông Hồ, tranh Hàng Trống, tranh Kính Nam Bộ, tranh Kim Hoàng, tranh Thập vật, tranh làng Sình, tranh Đồ thế Nam Bộ, tranh Thờ miền núi, tranh Gói vải, tranh Thờ đồng bằng và tranh Vải. Có thể thấy, tranh dân gian xuất hiện ở nhiều vùng miền: từ miền núi đến miền xuôi, từ nông thôn đến thành thị, từ Bắc vào Nam.
Tuy nhiên, theo thời gian, những dòng tranh này dần bị mai một và đi vào lãng quên. Người ta ít nói tới tranh dân gian hay tranh Tết, tranh thờ. Thay vào đó, một vài gia đình lựa chọn treo những loại tranh khác. Song, nhiều người vẫn dành một tình cảm đặc biệt cho dòng tranh dân gian. Họ sẵn sàng bỏ ra công sức để tìm hiểu về các tác phẩm có giá trị cao.
Như đã biết, mỗi bức tranh dân gian thường ẩn chứa quan niệm, mong ước của người xưa về cuộc sống tốt đẹp. Ví như tranh chim công, cá chép luôn sóng đôi với nhau để thể hiện mong muốn công thành danh toại, ấm no, sung túc. Bởi vậy, chơi tranh dân gian chính là cách giúp chúng ta hiểu hơn về văn hóa dân tộc.
Chơi tranh dân gian cần xuất phát từ niềm yêu thích, say mê. Trong quá trình chơi tranh, chúng ta nên tích lũy cho bản thân những kiến thức cơ bản về các loại tranh. Ngoài ra, chúng ta – những học sinh đang ngồi trên ghế nhà trường cần biết giữ gìn, phát huy các giá trị văn hóa tốt đẹp của thế hệ trước. Chúng ta có thể dành chút thời gian tìm hiểu cái hay, cái đẹp của văn hóa nước nhà để tuyên truyền, giới thiệu tới mọi người xung quanh nhằm giúp tranh dân gian trở nên phổ biến hơn.
Bài thuyết trình của em đến đây là hết. Cảm ơn cô và các bạn đã lắng nghe.
Viết bài văn trình bày ý kiến về thú chơi tranh dân gian trong đời sống hiện đại – Mẫu 6
Bài nói trình bày ý kiến về thú chơi tranh dân gian trong đời sống hiện đại
Xin chào cô và các bạn. Em tên là Quỳnh Thương. Trong tiết Nói và nghe hôm nay, em xin trình bày những suy nghĩ của mình về vấn đề thú chơi tranh dân gian trong đời sống hiện đại.
Chắc hẳn, ai trong mỗi chúng ta cũng từng nghe đến cụm từ “tranh Đông Hồ” rồi đúng không nào? Bên cạnh tranh Đông Hồ nổi tiếng, nước ta còn có nhiều dòng tranh dân gian khác như: tranh Hàng Trống, tranh Kim Hoàng,…
Ngày nay, tranh dân gian vẫn luôn hiện hữu trong đời sống con người Việt Nam. Người dân thường mua tranh về treo trong nhà vào các dịp lễ Tết hoặc đơn giản là để trưng bày cho đẹp nhà, đẹp cửa.
Tranh dân gian được dùng cho nhiều mục đích: thờ cúng, chúc tụng, gửi gắm mong ước,… Đặc biệt, dòng tranh này không kén người chơi. Với giá thành hợp lí và ý nghĩa sâu xa như vậy, bất cứ ai cũng có thể chọn lựa treo hoặc tặng tranh dân gian.
Có thể nói, tranh dân gian là biểu tượng văn hóa từ ngàn đời nay của đất nước ta. Vì thế, chơi tranh dân gian chính là cách để chúng ta giữ gìn, kế thừa những giá trị văn hóa tốt đẹp của cha ông.
Hi vọng rằng, trong quá trình chơi loại tranh này, mỗi cá nhân sẽ tìm hiểu rõ ràng, tránh trường hợp tranh giả, tranh sao chép. Đồng thời rèn luyện cho bản thân khả năng tư duy mỹ cảm nghệ thuật truyền thống của dân tộc. Là một công dân Việt Nam, chúng ta – những mầm non tương lai cần có ý thức hơn nữa về việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống mà cha ông dày công xây dựng.
Các bạn có suy nghĩ gì về vấn đề thú chơi tranh trong đời sống hiện đại? Hãy chia sẻ thêm với mọi người nhé.
Bài thuyết trình của em đến đây là kết thúc. Cảm ơn cô và các bạn đã chú ý theo dõi, lắng nghe.
Viết bài văn trình bày ý kiến về thú chơi tranh dân gian trong đời sống hiện đại – Mẫu 7
Bài nói trình bày ý kiến về thú chơi tranh dân gian trong đời sống hiện đại
Chào cô và các bạn. Tên em là Quỳnh Trang. Hôm nay, em sẽ trình bày ý kiến của bản thân về vấn đề thú chơi tranh dân gian trong đời sống hiện đại.
Chơi tranh được coi là một trong những hình thức giải trí, thư giãn của con người. Bước vào thời kì hiện đại, chúng ta có cơ hội tiếp xúc với nhiều loại tranh, từ tranh nước ngoài tới tranh Việt Nam rồi tranh sơn dầu, tranh đá,… Tuy nhiên, dường như con người lại bỏ quên tranh dân gian – một biểu tượng văn hóa truyền thống của đất nước.
Ngày nay, tranh dân gian dần mất đi chỗ đứng trong đời sống. Thật khó để bắt gặp một gia đình hiện đại treo tranh thờ, tranh Tết vào dịp lễ Tết cổ truyền. Vài năm trở lại đây, mọi người thường chọn tranh thêu hoặc tranh đính đá để trưng bày trong nhà. Song, đâu đó vẫn còn nhiều người hứng thú, say mê với tranh dân gian. Họ yêu những ý nghĩa sâu xa, những đường nét đơn giản của tranh. Họ cảm thấy thích thú khi được tìm hiểu về truyền thống văn hóa dân tộc.
Như vậy, chơi tranh dân gian không chỉ là một thú vui tao nhã mà còn là cách để thế hệ sau biết nâng niu, trân trọng các giá trị văn hóa tốt đẹp. Mong rằng, thú chơi này sẽ được lan tỏa tới nhiều nơi hơn nữa. Để làm được điều đó thì mỗi người cần trau dồi, mở rộng hiểu biết về tranh dân gian. Từ đó, đẩy lùi hiện tượng chơi tranh theo trào lưu hoặc treo tranh giả, tranh sao chép. Đặc biệt, là thế hệ trẻ của đất nước, chúng ta nên có suy nghĩ, hành động thiết thực, đúng đắn trong việc giữ gìn, bảo tồn văn hóa dân gian.
Bài thuyết trình của em đến đây là kết thúc. Rất cảm ơn cô và các bạn đã lắng nghe.