Viết một đoạn văn nêu cảm nghĩ của em về hình ảnh bếp lửa trong bài thơ Bếp Lửa ngắn gọn hay nhất sẽ giúp các em học sinh lớp 9 có thêm nhiều ý tưởng mới để hoàn thiện bài viết của mình.
Bài thơ Bếp lửa là một bài thơ hay xúc động về những kí ức tuổi thơ khi được sống bên bà cũng như tình cảm bà cháu thiêng liêng. Hôm nay, Trường Cao đẳng nghề Thừa Thiên Huế sẽ giới thiệu đến các em dàn ý chi tiết, sơ đồ tư duy cùng những đoạn văn mẫu nêu cảm nghĩ của em về hình ảnh bếp lửa trong bài thơ để các em hiểu rõ hơn về hình ảnh chiếc bếp lửa được tác giả nhắc đến trong bài.
Đề bài:Viết một đoạn văn nêu cảm nghĩ của em về hình ảnh bếp lửa trong bài thơ Bếp Lửa
Gợi ý cho các em:15 Bài văn mẫu Cảm nhận bài thơ Bếp lửa hay nhất
Dàn ý Cảm nhận hình ảnh bếp lửa trong bài thơ Bếp lửa
I. Mở bài:
– Giới thiệu Cảm nhận hình ảnh bếp lửa trong bài thơ Bếp lửa
– Ví dụ:
Trong gia đình, thì mỗi gia đình sẽ có những thành viên khác nhau, có những điểm nổi bật khác nhau. Có gia đình làm nông, có gia đình làm giáo viên, có gia đình làm nhân viên hoặc các nghề khác. Trong gia đình bạn có thể ba, mẹ, ông bà, cháu, cậu, chú,…. Mọi người thân trong gia đình là một người bạn không thể thiếu trong cuộc sống của chúng ta, mỗi người có thể đối với ta một cách khác nhau, thể hiện tình cảm khác nhau. Một tình cảm rất thiêng liêng được thể hiện qua bài thơ Bếp lửa của nhà thơ Bằng Việt đó là tình bà cháu. Bên cạnh tình bà cháu thiêng liêng thì bài thơ còn thể hiện hình ảnh bếp lửa rất nỗi bật.
II. Thân bài:
Viết một đoạn văn nêu cảm nghĩ của em về hình ảnh bếp lửa trong bài thơ Bếp Lửa
1. Hình ảnh bếp lửa khơi nguồn cảm xúc:
+ Bếp lửa là một hình ảnh rất quen thuộc ở làng quê Việt Nam
+ Bếp lửa rất gần gũi, thân thiện
+ Hình ảnh ngọn lửa ảo mộng được nhen nhóm vào lúc sương sớm rất mộng mị và ảo mộng
+ Hình ảnh bếp lửa rất gần gũi, thân thuộc và gắn bó với tuổi thơ
2. Suy ngẫm về hình ảnh bếp lửa:
+ Ấp iu, nồng đượm
+ Niềm yêu thương
+ Bếp lửa không thể dập tắt được trong lòng người cháu
+ Bếp lửa là nơi ấp ủ tình bà cháu thiêng liêng
III. Kết bài:
Nêu cảm nghĩ của em về hình ảnh bếp lửa
Viết một đoạn văn nêu cảm nghĩ của em về hình ảnh bếp lửa trong bài thơ Bếp Lửa ngắn gọn
Bếp lửa là một hình ảnh rất quen thuộc trong mỗi ngôi nhà ở làng quê Việt Nam, gợi nên hơi ấm gia đình, bàn tay tần tảo sớm hôm của người bà, người mẹ. Bếp lửa rất gần gũi, thân thiết với những người con nông thôn phải xa quê. Bếp lửa ấy ấp iu, nồng đượm, nhóm niềm yêu thương, và dang rộng vòng tay để vỗ về an ủi, để đưa người cháu trở về với những kỉ niệm yêu thương nhất của cuộc đời. Bếp lửa ấy đã âm ỉ cháy mãi, nuôi nấng tình yêu quê hương trong lòng người cháu, bếp lửa ấy đã ấp ủ mãi tình bà cháu thiêng liêng. Có thể nói, bếp lửa trong bài thơ chính là biểu tượng cho cội nguồn gia đình, quê hương, đất nước; cho những gì gần gũi thân thiết đối với tuổi thơ mỗi người và có sức mạnh tỏa sáng, nâng đỡ tâm hồn con người trong suốt hành trình dài rộng của cuộc đời. Tóm lại, bếp lửa vừa là hình ảnh thực đồng thời và là một hình tượng nghệ thuật độc đáo của tác phẩm.
Viết một đoạn văn nêu cảm nghĩ của em về hình ảnh bếp lửa trong bài thơ – Mẫu 1
Hình ảnh bếp lửa trong bài thơ Bếp Lửa của Bằng Việt là một hình ảnh thơ đẹp. Hình ảnh bếp lửa gắn với người bà tần tảo sớm hôm. Và hơn hết, bếp lửa ấy là cả tuổi thơ trong người cháu. Nó gắn với sương sớm, gắn với những yêu thương và cả những tháng ngày bố mẹ mẹ vất vả nơi chiến trường, bên cháu chỉ có bà và bếp lửa. Ký ức có phần đau thương bởi gắn với mùi hương của lửa, gắn với những tháng ngày xa nhà, thiếu vắng tình yêu thương của bố mẹ. Nhưng bù lại người cháu được sống trong tình yêu thương lớn lao của bà. Tám năm dòng cùng bà nhóm lửa là tám năm người cháu cháu được nghe những tiếng tu hú kêu, được sống trong tình yêu thương lớn lao của bà. Và dù bếp lửa có trải qua gian khó vẫn ấm áp mãi tình yêu thương. Ngay cả khi giặc đốt làng cháy tàn, cháy rụi thì bếp lửa ấy vẫn là nơi sưởi ấm tình thương của bà và cả niềm tin trong cháu. Điệp từ một ngọn lửa, một bếp lửa được lặp đi lặp lại trong toàn bài thơ như một sự khẳng định, một sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ dòng cảm xúc trong lòng tác giả. Bếp lửa là sự vất vả của bà nhưng những vất vả của bà đã làm nên tình thương lớn lao cho người cháu và trở nên: Ôi kì lạ và thiêng liêng- bếp lửa! Hình ảnh bếp lửa không chỉ là hình ảnh của làng quê, không chỉ là hình ảnh của những năm tháng thiếu thốn mà bếp lửa trở thành những ký ức trong tâm hồn của cháu. Và dù để ở nước Nga xa xôi chúa vẫn mãi nhớ về bà, mãi nhớ về bếp lửa trong tất cả yêu thương nồng đượm.
Viết một đoạn văn nêu cảm nghĩ của em về hình ảnh bếp lửa trong bài thơ – Mẫu 2
Ngọn lửa, từ bao đời nay luôn là biểu tượng thiêng liêng của sự sống, đem lại ánh sáng, sự ấm áp cho con người và vạn vật. Đi vào thơ kháng chiến, ngọn lửa trở thành biểu tượng của sức mạnh ý chí và nghị lực, là biểu tượng rực cháy của niềm tin và hy vọng chiến thắng,… Nhiều nhà thơ đã rất thành công khi lấy cảm hứng từ hình ảnh ánh đèn, ngọn lửa,… Tiêu biểu là Bằng Việt với “Bếp lửa”. Trong bài thơ ngọn lửa là những kỉ niệm ấm lòng, là niềm tin thiêng liêng kì diệu nâng bước cháu trên hành trình dài rộng của cuộc đời. Ngọn lửa chính là sức sống, lòng yêu thương, niềm tin mà bà truyền cho cháu. Bà nhóm lên tình yêu thương dành cho mọi người, cho cháu (ngọn lửa lòng bà ủ sẵn, ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng…). Ngọn lửa bình dị mà mang ý nghĩa thiêng liêng kỳ diệu. Bếp lửa bà nhen ko chỉ bằng nhiên liệu ở ngoài mà còn nhen lên từ ngọn lửa trong bà: ngọn lửa của sức sống, lòng yêu thương,niềm tin. Bà là người giữ ngọn lửa, truyền lửa của sự sống, của niềm tin cho các thế hệ nối tiếp. Bằng Việt đã sáng tạo hình ảnh ngọn lửa vừa thực vừa mang ý nghĩa biểu tượng để thể hiện tình yêu thương, lòng biết ơn đối với người bà thân yêu của mình. Trong hình ảnh ngọn lửa ấy, người đọc còn cảm nhận rất rõ tình yêu gia đình, quê hương đất nước của nhà thơ.
Viết một đoạn văn nêu cảm nghĩ của em về hình ảnh bếp lửa trong bài thơ – Mẫu 3
Trong bài thơ “Bếp lửa”, hình ảnh bếp lửa chính là hình ảnh giản dị mà thiêng liêng, cao quý, là biểu tượng của tình bà cháu và lưu giữ những kỷ niệm ấu thơ tươi đẹp của tác giả. Thật vậy, bếp lửa chính là hình ảnh của một thời ấu thơ gian khó mà tràn ngập tình yêu thương của tác giả Bằng Việt. Ông sống cùng bà bên bếp lửa, đã quen với những “chờn vờn sương sớm”, với những “ấp iu nồng đượm” bên bếp lửa và bên người bà kính yêu của mình. Đó là những tháng ngày vất vả mà “khói hun nhèm mắt cháu”, “sống mũi còn cay” mà tác giả đã từng trải qua. Thế nhưng, cũng chính ở bếp lửa, người đọc thấy được tình bà cháu sâu đậm. Trong suốt những năm tháng ấu thơ đó, tác giả đã sống cùng với bà, được bà chăm sóc, chỉ bảo tận tình. Đặc biệt nhất, đó là hình ảnh “Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm/Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi/Nhóm niềm xôi gạo mới, sẻ chung vui/Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ” đều cho thấy được tình yêu mà bà dành cho cháu, dành cho gia đình qua bếp lửa. Trong bếp lửa, người đọc thấy được tình yêu, tấm lòng bao la mà bà dành cho con cháu. “Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn/Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng” cho ta thấy được bếp lửa hay cũng chính là ngọn lửa mà bà luôn ấp ủ dành cho tương lai hạnh phúc của con cháu. Trong những năm tháng chiến tranh, bà chính là chỗ dựa tinh thần và là người mang đến hơi ấm cho con cháu của mình tựa như bếp lửa bập bùng. Để rồi, sau này, hình ảnh bếp lửa mãi mãi là ký ức thật đẹp mà tác giả lưu giữ trong tâm trí. Dù có đi đến những cahan trời mới thì bếp lửa và ký ức về bà vẫn mãi mãi ngự trị trong tim của tác giả. Đó chính là thứ thiêng liêng, kỳ diệu và ấm áp nhất “Ôi kỳ lạ và thiêng liêng, bếp lửa”. Tóm lại, hình ảnh bếp lửa là hình ảnh nghệ thuật thành công, để lại ấn tượng sâu sắc cho bạn đọc.
Cảm nhận hình ảnh bếp lửa trong bài thơ Bếp lửa – Mẫu 1
Trong bài thơ “Bếp lửa”, hình ảnh bếp lửa chính là hình ảnh giản dị mà thiêng liêng, cao quý, là biểu tượng của tình bà cháu và lưu giữ những kỷ niệm ấu thơ tươi đẹp của tác giả. Thật vậy, bếp lửa chính là hình ảnh của một thời ấu thơ gian khó mà tràn ngập tình yêu thương của tác giả Bằng Việt.
Ông sống cùng bà bên bếp lửa, đã quen với những “chờn vờn sương sớm”, với những “ấp iu nồng đượm” bên bếp lửa và bên người bà kính yêu của mình. Đó là những tháng ngày vất vả mà “khói hun nhèm mắt cháu”, “sống mũi còn cay” mà tác giả đã từng trải qua. Thế nhưng, cũng chính ở bếp lửa, người đọc thấy được tình bà cháu sâu đậm. Trong suốt những năm tháng ấu thơ đó, tác giả đã sống cùng với bà, được bà chăm sóc, chỉ bảo tận tình. Đặc biệt nhất đó là hình ảnh:
“Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượmNhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùiNhóm niềm xôi gạo mới, sẻ chung vuiNhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ”
Qua đó, cho thấy được tình yêu mà bà dành cho cháu, dành cho gia đình qua bếp lửa. Trong bếp lửa, người đọc thấy được tình yêu, tấm lòng bao la mà bà dành cho con cháu.
“Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵnMột ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng”
Cho ta thấy được bếp lửa hay cũng chính là ngọn lửa mà bà luôn ấp ủ dành cho tương lai hạnh phúc của con cháu. Trong những năm tháng chiến tranh, bà chính là chỗ dựa tinh thần và là người mang đến hơi ấm cho con cháu của mình tựa như bếp lửa bập bùng. Để rồi, sau này, hình ảnh bếp lửa mãi mãi là ký ức thật đẹp mà tác giả lưu giữ trong tâm trí.
Dù có đi đến những chân trời mới thì bếp lửa và ký ức về bà vẫn mãi mãi ngự trị trong tim của tác giả. Đó chính là thứ thiêng liêng, kỳ diệu và ấm áp nhất “Ôi kỳ lạ và thiêng liêng, bếp lửa”. Tóm lại, hình ảnh bếp lửa là hình ảnh nghệ thuật thành công, để lại ấn tượng sâu sắc cho bạn đọc.
Cảm nhận hình ảnh bếp lửa trong bài thơ Bếp lửa – Mẫu 2
Bằng Việt thuộc thế hệ các nhà thơ trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mĩ. Những năm tháng xa quê hương ở nước ngoài, hình ảnh người bà đã thôi thúc cho nhà thơ nguồn cảm xúc mãnh liệt, sôi sục để sáng tạo nên những vần thơ giản dị, ám ảnh đầy sức gợi của cảm xúc, cảm giác về tình cảm bà cháu thiêng liêng, về hình ảnh người bà tần tảo hi sinh, yêu thương đứa cháu nhỏ gắn liền với hình ảnh bếp lửa chập chờn sương sớm qua bài thơ “Bếp lửa”. Hình ảnh “bếp lửa” ấp iu, nồng đượm một lần nữa làm tỏa sáng, và làm hồng lên toàn bộ cấu tứ trong mạch cảm xúc của nhà thơ.
Mở đầu bài thơ là hình ảnh bếp lửa trong sương sớm, gắn liền với đôi tay chi chút, cần mẫn của người bà nhóm lửa:
“Một bếp lửa chờn vờn sương sớmMột bếp lửa ấp iu nồng đượmCháu thương bà biết mấy nắng mưa”
Bếp lửa chờn vờn sương sớm, ấp iu được nhóm lên chắt chiu, cần mẫn và khéo léo bởi đôi tay gầy guộc, xương xương của người bà trong sớm hôm. Cụm từ “biết mấy nắng mưa” đã cho thấy sự vất vả, tần tảo, hi sinh sớm hôm của người bà cho sự đủ đầy, cho đứa cháu ấm lòng.
Không chỉ vậy bếp lửa thiêng liêng ấm áp ấy cũng là sự gắn liền với mùi khói hun nhèm mắt cháu. Bếp lửa ấy gắn liền với cuộc đời khốn khó, cơ cực của hai bà cháu, chính mùi khói cay đặc đã trở thành mùi vị quen thuộc của ấu thơ mà dù có xa quê, có đi khắp chân trời góc bể thì nó vẫn hun nhèm mắt cháu, cháu vẫn cứ bồi hồi, xúc động cay xè khi nhớ về nó. Vậy là bếp lửa không chỉ gắn liền với hình ảnh người bà ấp iu, chi chút mà còn là mạch dẫn để tác giả gợi nhớ về tuổi thơ, về những gì cay đắng, cơ cực mà yên ấm trong vòng tay yêu thương, chi chút của người bà. Nhớ bà, cũng chính là việc tác giả nhớ về hình ảnh bếp lửa gắn liền với trái tim nồng hậu, ấm áp của người bà hơn bao giờ hết. Người bà cũng là biểu tượng của người giữ lửa, nhóm lửa và truyền lửa thiêng liêng, bất diệt:
“Rồi sớm rồi chiều, lại bếp lửa bà nhen,Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn,Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng…
Lận đận đời bà biết mấy nắng mưaMấy chục năm rồi đến tận bây giờBà vẫn giữ thói quen dậy sớmNhóm bếp lửa ấp iu nồng đượmNhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùiNhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏÔi kì lạ và thiêng liêng-bếp lửa.”
Bà là người nhóm lửa, nhóm ngọn lửa của yêu thương mà lòng bà luôn ủ sẵn để mong sưởi ấm cho cháu trong mọi hoàn cảnh. Bà nhóm ngọn lửa sưởi ấm cháu trong những lúc đói lòng, nhóm yêu thương ngọt bùi với xóm giềng, bà cũng là người nhóm dậy và thức dậy những gì tươi đẹp, hồn nhiên và trong sáng nhất của tuổi thơ cháu. Còn gì thiêng liêng cho bằng. trái tim và tình yêu thương của bà đã trở thành ngọn lửa bất diệt, thiêng liêng luôn rực sáng, soi đường chỉ lối trên mỗi bước chân của cháu. Nó thiêng liêng, bất diệt đến mức mà dù sau này, có đi xa, có lửa trăm nhà, có khói trăm tàu thì cuộc sống tiện nghi hiện đại ấy cũng không bằng ngọn lửa lòng bà, không ấm áp và ngọt bùi đắng cay như mùi khói hun nhèm mắt cháu. Nhưng tấm lòng người bà cũng đã được thể hiện xúc động và chân thực qua hình ảnh bếp lửa. Bếp lửa ấy là nơi bà nhen nhóm lên những yêu thương, sự quan tâm, chăm sóc và những kí ức đẹp của tuổi thơ trong cháu. Ngọn lửa của bà như nguồn sáng mạnh mẽ, bất diệt để làm cháu tự tin, can đảm trên đường đời. Có thể nói, bếp lửa ấy không chỉ còn có hơi ấm, mà nó còn cả một trời sức mạnh, cả một biển yêu thương, một điểm tựa vững chắc và thiêng liêng của tuổi thơ. Để rồi cứ thổn thức, âm vang và ám ảnh mãi hình ảnh bếp lửa và đôi bàn tay chi chút, cẩn trọng của bà. Bếp lửa ấy của Bằng Việt giống như mảnh kí ức thiêng liêng, thầm kín mà dù có đi xa, quen với cuộc sống hiện đại, tiện nghi thì cũng không bao giờ cháu quên thổn thức sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa. Như thế, bếp lửa chính là sự hiện hữu thiêng liêng và cao cả của người bà, của sức mạnh và niềm tin bất diệt mà người cháu luôn khắc cốt ghi tâm.
Bằng những hình ảnh thơ giản dị, xúc động và đầy tính thẩm mĩ, nhà thơ Bằng Việt đã tạo dựng nên chân dung người bà, người phụ nữ Việt Nam dũng cảm, kiên trung bằng tình yêu thương của mình sưởi ấm đứa cháu, vững lòng nơi hậu phương.
Cảm nhận hình ảnh bếp lửa trong bài thơ Bếp lửa – Mẫu 3
Trong cuộc đời mỗi con người chúng ta có thể quên đi nhiều điều, nhưng ký ức tuổi thơ thì khó có thể phai nhạt. Đối với Bằng Việt, kỷ niệm thơ gắn liền với hình ảnh người bà thân thương và bếp lửa nồng đượm. Tất cả kỷ niệm thời thơ ấu thật ấy được tác giả làm sống dậy trong bài thơ “Bếp lửa”. Bài thơ được viết năm 1963 khi tác giả đang sinh sống và học tập xa đất nước. Bài thơ đã khắc họa chân thật hình ảnh người bà gắn liền với những kỷ niệm trong quá khứ để từ đó tác giả bộc lộ tâm trạng nhớ nhung cùng với những tình cảm yêu thương xen lẫn cảm phục của mình đối với người bà thân yêu.
Đi ra từ nỗi nhớ, tất cả những hình ảnh, ngôn từ bị cuốn theo dòng hoài niệm. Một thời quá khứ được tái hiện lại trong tâm tưởng với những chi tiết rất cụ thể. Tác giả nâng niu từng mảnh ký ức hiện về. Theo diễn biến tâm tư của nhân vật người cháu, chúng ta cảm nhận thấm thía từng cung bậc tâm trạng theo từng ngọn lửa trong bài thơ: lửa của kỷ niệm tuổi thơ, lửa của cuộc sống lúc đã trưởng thành; bếp lửa của bà ngày xưa, bếp lửa ngày nay.
Sống xa quê hương, giã từ xứ lạnh đầy sương tuyết, tác giả chạnh lòng nhớ đến một bếp lửa thật ấm áp của quê hương. Bếp lửa gắn chặt với hình ảnh người bà, bếp lửa của một thời thơ ấu với nhiều kỷ niệm khó phai.
Một bếp lửa chờn vờn sương sớmMột bếp lửa ấp iu nồng đượmCháu thương bà biết mấy nắng mưa!
Trong mấy câu thơ mở đầu có một bếp lửa chờn vờn mang màu cổ tích. Hình ảnh “chờn vờn sương sớm” thật sống động, gợi lên ngọn lửa không định hình khi to khi nhỏ, khi lên khi xuống nhưng rất mạnh mẽ. Sử dụng hình ảnh ấy rất thích hợp với trạng thái tâm lý hồi tưởng những vậy đã qua, đã rời ra nhưng lại có sức ám ảnh day dứt. Từ láy “ấp iu” bao gồm hàm ý bé nhỏ, thầm kín bên trong, đồng thời còn gợi lên cho ta bàn tay khéo léo, kiên nhẫn và chăm chút của người nhóm lửa. Điệp ngữ “một bếp lửa” được lặp lại ở đầu những câu thơ có tác dụng nhấn mạnh dấu ấn kỷ niệm sâu lắng trong ký ức tác giả. Nó trở thành hình tượng xuyên suốt hết bài thơ. Hồi tưởng về bếp lửa của quê hương, cũng chính là hồi tưởng về người bà thân yêu của mình. “Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”. Đọng lại trong 3 dòng thơ đầu có lẽ là chữ “thương” và hình ảnh người bà lặng lẽ, âm thầm trong khung cảnh lầm lũi “biết mấy nắng mưa”. Hai chữ “nắng mưa” không chỉ để nói đến nắng mưa của thiên nhiên mà còn gợi cho ta nghĩ đến nắng mưa cuộc đời. Biết bao tình cảm xúc động mà nghẹn ngào trong câu thơ ấy!
Từ tình thương và nỗi nhớ da diết tràn đầy đã đánh thức tác giả sống lại với những năm tháng ấu thơ.
Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khóiNăm ấy là năm đói mòn đói mỏi,Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy,Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháuNghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!
Lẽ thường, vui thì người ta cũng nhớ, nhưng những kỷ niệm buồn thường sâu đậm hơn nhiều. Tuổi thơ ấy có bóng đen ghê rợn, đau buồn của nạn đói năm 1945. Đó là năm “đói mòn đói mỏi”, “bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy”. Đứa trẻ đã sớm có ý thức tự lập và phải sống trong sự cưu mang của người bà. Cảm nhận về nỗi vất vả gián tiếp tác giả bộc lộ thời thơ ấu của mình. “Mùi khói” rồi lại” khói hun nhèm”, có thể nói nhà thơ đã chọn được một chi tiết thật chính xác, vừa miêu tả chân thực cuộc sống tuổi thơ, vừa biểu hiện những tình cảm da diết, bâng khuâng, xót xa, thương mến. Hình ảnh “khói hun nhèm mắt” cũng gợi cho ta nghĩ đến sự cơ cực, vất vả tỏa ra từ một bếp lửa của gia đình nghèo khổ. Câu thơ “nghĩ lại…. cay” tô đậm nỗi niềm thổn thức của tác giả. Thơ Bằng Việt có sức truyền cảm mạnh mẽ nhờ những chi tiết, ngôn từ chân thật, giản dị như thế. Cái bếp lửa kỷ niệm của nhà thơ chỉ mới khơi lên, thoang thoảng mùi khói, mờ mờ sắc khói… mà đã đầy ắp những hình ảnh hiện thực, thấm đậm biết bao nghĩa tình sâu nặng.
Từ sau sương khói mịt mờ của tuổi thơ, tác giả đã thổi phồng lên những kỷ niệm của tuổi thiếu niên khi quê hương đất nước có chiến tranh.
Tám năm ròng, cháu cùng bà nhóm lửaTu hú kêu trên những cánh đồng xaKhi tu hú kêu, bà còn nhớ không bà?Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế.Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!Mẹ cùng cha công tác bận không về,Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe,Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học,Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc,Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà,Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?
Ngôn ngữ, hình ảnh thơ rõ dần. Giọng thơ như thể giọng kể trong một câu chuyện cổ tích, có thời gian, không gian, có sự việc và các nhân vật cụ thể. Nếu trong hồi ức, lúc tác giả lên bốn tuổi, ấn tượng đậm nét nhất của đứa cháu là “mùi khói”, thì đến đây, xuất hiện một ấn tượng khác là “tiếng tu hú”. Lúc mơ hồ, vắng lặng “trên những cánh đồng xa”, lúc gần gũi, nghẹn ngào “sao mà tha thiết thế”, tiếng tu hú như than thở, sẻ chia những nỗi nhớ xa cách, trông ngóng mỏi mòn. Đưa tiếng tu hú, một âm thanh rất đồng nội ấy vào thơ, Bằng Việt quả là có một tâm hồn gắn bó sâu nặng với quê hương.
Trong những câu thơ ấy, ta thấy từ “bà” được lặp lại nhiều lần cùng với cấu trúc “bà – cháu” sóng đôi gợi sắc điệu tình cảm xoắn xuýt, gắn bó, ấm áp của tình bà cháu. Tác giả như trách móc loài chim tu hú vô tình chỉ gợi sự cô đơn đến vắng vẻ mà không đến san sẻ với bà. Cách nói này đã bộc lộ kín đáo, ý nhị tình cảm của tác giả đối với bà. Tiếng chim tu hú trong khổ thơ làm cho không gian kỷ niệm có chiều sâu. Nỗi nhớ của cháu về bà bỗng trở nên thăm thẳm và vời vợi. Ẩn chứa đằng sau những câu chữ ấy là tình cảm thương yêu, xót xa của nhà thơ trước nỗi cô đơn và sự vất vả của bà.
Khổ thơ tiếp theo với những hình ảnh bà cháu và bếp lửa trong những năm kháng chiến.
Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụiHàng xóm bốn bên trở về lầm lụiĐỡ đần bà dựng lại túp lều tranhVẫn vững lòng, bà dặn cháu đinh ninh:“Bố ở chiến khu, bố còn việc bố,Mày có viết thư chớ kể này kể nọ,Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!”
Đứa cháu lớn dần, cuộc sống khó khăn hơn trước song nghị lực của bà vẫn bền vững, tấm lòng của bà vẫn nhân hậu, mênh mông. Lời người bà dặn cháu thật nôm na nhưng chân thực và cảm động. “Bố ở chiến khu bố còn việc bố – Mày có viết thư chớ kể này, kể nọ”. Gian khổ, thiếu thốn và nhớ nhung cần phải che giấu cho con người đi xa được yên lòng. Tấm lòng người bà thương con thương cháu ân cần, chu đáo biết bao.
Rồi sớm rồi chiều, lại bếp lửa bà nhen,Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn,Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng…
Trong những câu của khổ thơ này, hình ảnh “bếp lửa” đã chuyển thành “ngọn lửa” trong ý nghĩ tượng trưng, khái quát. “Bếp lửa” với những ấm áp bình lặng của tình cảm gia đình, của tình bà cháu, đã trở thành ngọn lửa của trái tim, của niềm tin và sức sống mãnh liệt con người. Tình thương và lòng nhân ái bao la của con người mãi ấm nóng, bền bỉ tỏa sáng, trường tồn.
Từ cảm xúc nhớ thương của đứa cháu nhỏ với bà, tác giả đã chuyển sang bộc lộ những cảm xúc, suy nghĩ của một thanh niên đã trường thành đối với người bà trong hiện tại.
Lận đận đời bà biết mấy nắng mưaMấy chục năm rồi, đến tận bây giờBà vẫn giữ thói quen dậy sớmNhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm,Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi,Nhóm niềm xôi gạo mới, sẻ chung vui,Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ…Ôi kỳ lạ và thiêng liêng – bếp lửa!
Chiến tranh đã đi qua, những gian khổ đã vơi bớt, cuộc sống đã đổi thay nhưng bà vẫn giữ thói quen “thói quen dậy sớm”, bếp lửa của bà vẫn “ấp iu nồng đượm” như ngày nào. Điệp từ “nhóm” được nhắc lại 4 lần mang bốn nghĩa khác nhau, tỏa sáng dần nét “kỳ lạ”, thiêng liêng và nhất là tình nghĩa của bà. Nếu trước đây, đó là ngọn lửa nồng đượm nhóm niềm tin trong những ngày gian khổ, khó khăn vì vật vã đói kém, thì bây giờ ngọn lửa ấy còn nhóm lên trong lòng tác giả bao vẻ đẹp khác nữa. “Nhóm” mở rộng tấm lòng đoàn kết, gắn bó với làng xóm quê hương. Và cuối cùng, người bà kỳ diệu ấy “nhóm dậy”, thức tỉnh và bồi đắp cho đứa cháu về tâm hồn bếp lửa ấp iu nồng đượm” ấy là bếp lửa có thật, có ánh sáng và hơi ấm. “Nhóm niềm yêu thương” có nghĩa là bà truyền cho cháu tình ruột thịt nồng đượm, ngọt ngào. “Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui” hay cũng chính là bà và cách sống. Âm điệu trong đoạn thơ này dạt dào như sóng dồi, lan tỏa như lửa ấm hay đây chính là cảm xúc đang dâng trào, đang tỏa ấm trong trái tim nhà thơ? Mỗi câu, mỗi chữ cứ hồng lên, nồng ấm biết bao tình cảm nhớ thương nhân nghĩa! Có thể nói câu thơ cuối bộc lộ rõ nhất thái độ kính trọng và cảm xúc đang dâng trào ào ạt trong tâm hồn Bằng Việt. Câu thơ chỉ có 8 chữ mà có sức khái quát cả suy nghĩ lẫn tình cảm của tác giả đối với bếp lửa gắn liền hình ảnh người bà, với cách ngắt nhịp là một dấu lặng đầy nghệ thuật chứa đựng bao cảm xúc và suy nghĩ ko thể diễn tả hết bằng ngôn từ.
Đoạn thơ cuối cùng vẫn tiếp tục mạch cảm xúc nhớ thương khôn nguôi thể hiện kín đáo tình cảm biết ơn sâu nặng của tác giả đối với người bà đã từng cưu mang, đùm bọc mình.
Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu,Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả,Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở– Sớm mai này, bà nhóm bếp lên chưa?
Giờ đây, tác giả đã sống xa xứ, đã trưởng thành, đã rời xa vòng tay người bà. Đứa cháu ấy đã được mở rộng tầm mắt để nhìn thấy “khói trăm tàu”, “lửa trăm nhà”, “niềm vui trăm ngả”. Cuộc sống đầy đủ vật chất hơn, nhưng vẫn ko nguôi ngoai tình cảm nhớ thương bà. Tình cảm ấy đã trở thành thường trực trong tâm hồn tác giả. Câu hỏi tu từ khép lại bài thơ thật khéo, thật hay, có sức ám ảnh day dứt tâm trí người đọc. Nhà thơ hỏi nhưng cũng là nhắc nhở chính mình phải luôn nhớ tới ngọn lửa quê hương, nhớ tới người bà đã trở thành chỗ dựa tinh thần của đứa cháu ở phương xa. Đó là nỗi nhớ tha thiết, da diết. Hình ảnh bếp lửa cứ trở đi trở lại trong bài thơ, vừa là một hình ảnh rất cụ thể, vừa có sức khái quát sâu sắc.
“Bếp lửa ấp iu nồng đượm” đã trở thành biểu tượng của tấm lòng người bà, mãi mãi sưởi ấm tâm hồn nhà thơ. Thật không ngờ, một bếp lửa bình thường như trăm ngàn bếp lửa khác lại có tác dụng xúc động đến như vậy. Người bà trong “Bếp lửa” đã nuôi con nuôi cháu, đã đi qua đói khát và chiến tranh, đã cho con mình đi kháng chiến vì đất nước, đã âm thầm ở lại nhà giữ mảnh đất tổ tiên để lại, âm thầm chờ đợi và hy vọng… Đó chẳng phải là biểu tượng về sự sống lớn lao và cao cả của con người sao? Bà là người phụ nữ Việt Nam, như ngọn lửa cháy sáng và ấm mãi.
Trong hành trình cuộc đời của mỗi con người có những ngày tháng, những kỷ niệm và những con người không thể nào quên được. Bằng Việt đã có được một tuổi thơ gắn bó với người bà mà ông yêu quý, kính trọng. Ông đã gửi gắm tâm sự trong bài thơ và thể hiện nó bằng giọng điệu tâm tình, sâu lắng, hình ảnh thơ gợi cảm và giàu sức liên tưởng, suy ngẫm. Bài thơ chính là món quà quý giá mà Bằng Việt gửi đến cho người đọc. Tác phẩm có tác dụng giáo dục rất tốt về tình nghĩa thủy chung với gia đình, quê hương, đối với những gì đã nhen nhóm và nuôi dưỡng ngọn lửa thiêng liêng trong tâm hồn mỗi con người.
Trong cuộc đời, ai cũng có riêng cho mình những kỉ niệm của một thời ấu thơ hồn nhiên, trong sáng. Những kỉ niệm ấy là những điều thiêng liêng, thân thiết nhất, nó có sức mạnh phi thường nâng đỡ con người suốt hành trình dài và rộng của cuộc đời. Bằng Việt cũng có riêng ông một kỉ niệm, đó chính là những tháng năm sống bên bà, cùng bà nhóm lên cái bếp lửa thân thương. Không chỉ thế, điều in đậm trong tâm trí của Bằng Việt còn là tình cảm sâu đậm của hai bà cháu. Chúng ta có thể cảm nhận điều đó qua bài thơ “Bếp lửa” của ông.
Cảm nhận hình ảnh bếp lửa trong bài thơ Bếp lửa – Mẫu 4
Bằng Việt thuộc thế hệ nhà thơ trương thành trong kháng chiến chống Mĩ. Bài thơ “Bếp lửa” được ông sáng tác năm 1963 lúc 19 tuổi và đang đi du học ở Liên Xô. Bài thơ đã gợi lại những kỉ niệm đầy xúc động về người bà và tình bà cháu, đồng thời thể hiện lòng kính yêu, trân trọng và biết ơn của người cháu với bà, với gia đình, quê hương, đất nước.
Tình cảm và những kỉ niệm về bà được khơi gợi từ hình ảnh bếp lửa. Ở nơi đất khách quê người, bắt gặp hình ảnh bếp lửa, tác giả chợt nhớ về người bà:
“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.”
Hình ảnh “chờn vờn” gợi lên những mảnh kí ức hiện về trong tác giả một cách chập chờn như khói bếp. Bếp lửa được thắp lên, nó hắt ánh sáng lên mọi vật và toả sáng tâm hồn đứa cháu thơ ngây. Bếp lửa được thắp lên đó cũng là bếp lửa của cuộc đời bà đã trải qua ” biết mấy nắng mưa”. Từ đó, hình ảnh người bà hiện lên. Dù đã cách xa nữa vòng trái đất nhưng dường như Bằng Việt vẫn cảm nhận được sự vỗ về, yêu thương, chăm chút từ đôi tay kiên nhẫn và khéo léo của bà. Trong cái khoảnh khắc ấy, trong lòng nhà thơ lại trào dâng một tình yêu thương bà vô hạn. Tình cảm bà cháu thiêng liêng ấy cứ như một dòng sông với con thuyền nhỏ chở đầy ắp những kỉ niệm mà suốt cuộc đời này chắc người cháu không bao giờ quên được vàcung chính t? đó, sức ấm và ánh sáng của tình bà cháu cũng như của bếp lửa lan toả toàn bài thơ. Chính “mùi khói” đã xua đi cái mùi tử khí trên khắp các ngõ ngách. Cũng chính cái mùi khói ấy đã quện lại và bám lấy tâm hồn đứa trẻ. Dù cho tháng năm có trôi qua, những kí ức ấy cũng sẽ để lại ít nhiều ấn tượng trong lòng đứa cháu để rồi khi nghĩ lại lại thấy “sống mũi còn cay”. Là mùi khói làm cay mắt người người cháu hay chính là tấm lòng của người bà làm đứa cháu không cầm được nước mắt? Cháu cùng bà nhóm lửa”, nhóm lên ngọn lửa củasự sống và của tìng yêu bà cháy bỏng của một cậu bé hồn nhiên, trong trắng như một trang giấy.Chính hình ảnh bếp lửa quê hương, bếp lửa của tình bà cháu đó đã gợi nên một liên tưởng khác, một hồi ức khác trong tâm trí thi sĩ thuở nhỏ.
Hình ảnh ngọn lửa toả sáng trong câu thơ, nó có sức truyền cảm mạnh mẽ. Ngọn lửa của tình yên thương, ngọn lửa của niềm tin, ngọn lửa ấm nồng như tình bà cháu, ngọn lửa đỏ hồng si sáng cho con đường đứa cháu. Bà luôn nhắc cháu rằng: nơi nào có ngọn lửa, nơi đó có bà, bà sẽ luôn ở cạnh cháu.Nhóm lên bếp lửa ấy, người bà đã truyền cho đứa cháu một tình yêu thương những người ruột thịt và nhắc cháu rằng không bao giờ được quên đi những năm tháng nghĩ tình, những năm tháng khó khăn .Đưá cháu sẽ không bao giờ quên và chẳng thể nào quên được vì đó chính là nguồn cội, là nơi mà tuổi thơ cuả đưá chaú đã được nuôi dưỡng để lớn lên từ đó.
“Đọc xong bài thơ, nhắm mắt laị tưởng tưởng, bạn sẽ hình dung thấy ngay hình ảnh bếp lưả hồng và dáng ngươì bà lặng lẽ ngồi bê. Hình ảnh có tính sóng đôi này hiện lên thật sống động, rõ ràng như thể nét khắc, nét chạm vậy…”
Cảm nhận hình ảnh bếp lửa trong bài thơ Bếp lửa – Mẫu 5
Bằng Việt thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành trong thời kì chống Mĩ cứu nước. Thơ ông trong trẻo, mượt mà, khai thác những kỉ niệm và mơ ước của tuổi trẻ nên rất gần gũi với bạn đọc. Bài thơ Bếp lửa được Bằng Việt sáng tác năm 1963, khi ấy tác giả là sinh viên đang du học tại Liên Xô, phải sống xa nhà. Bài thơ gợi lại những kỉ niệm về người bà và tình bà cháu cảm động, sâu sắc. Hình ảnh bếp lửa trong bài thơ là hình ảnh nổi bật, giàu ý nghĩa, khơi gợi nhiều suy nghĩ.
Hình ảnh thân thương, ấm áp về bếp lửa:
“Một bếp lửa chờn vờn sương sớmMột bếp lửa ấp iu nồng đượm”.
Hình ảnh quen thuộc, gần gũi trong mỗi gia đình từ bao đời (từ “ấp iu”: gợi nhớ bàn tay khéo léo, kiên nhẫn, lại rất chính xác với công việc nhóm lửa)
Trong kí ức, hình ảnh bếp lửa đã trở thành kỉ niệm khó phai. Bếp lửa không chỉ “chờn vờn” sương sớm, gắn bó với sự tần tảo của người phụ nữ Việt Nam mà còn “ấp iu nồng đượm”, bếp lửa được nhen lên bằng sự nâng niu, ôm ấp của tình thương.
Hình ảnh bếp lửa khơi gợi kỉ niệm thời thơ ấu bên người bà:
“Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi,Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy”.
Tuổi thơ có bóng đen ghê rợn của nạn đói năm 1945; có mối lo giặc tàn phá xóm làng; có hoàn cảnh chung của nhiều gia đình Việt Nam trong kháng chiến : bố mẹ đi công tác bận không về, cháu ở với bà, sống trong sự dạy dỗ, cưu mang của bà. Bếp lửa hiện lên trong kí ức như tình bà ấm áp, như sự đùm bọc của bà: “Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói” hay “Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi”.
Bếp lửa của tình bà cháu lại gợi nên một liên tưởng khác. Đó là tiếng chim tu hú như giục giã, như khắc khoải điều gì thật da diết, vừa gợi ra tình cảnh vắng vẻ và nhớ mong của hai bà cháu, vừa khiến lòng người trỗi dậy nồi nhớ mong, rất phù hợp với tâm tình người xa xứ.
Hình ảnh bếp lửa khơi gợi đức hi sinh, tần tảo của người bà, bếp lửa gắn với cuộc đời bà nhiều gian khổ, nhưng cũng gắn với những đức tính cao đẹp của bà. Bà là người nhóm lửa, cũng là người giữ cho ngọn lửa luôn ấm nóng và toả sáng trong mỗi gia đình. Ngọn lửa bà nhóm lên mỗi sớm mai.
“Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờBà vẫn giữ thói quen dậy sớmNhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm”.
Vì vậy, đứa cháu dù đi xa, vẫn không thể quên ngọn lửa của bà, tấm lòng thương yêu đùm bọc của bà. Ngọn lửa ấy đã trở thành kỉ niệm ấm lòng, thành niềm tin, nâng bước cháu trên chặng đường dài. Kì diệu hơn, người cháu nhờ hiểu và yêu bà mà thêm hiểu nhân dân, dân tộc mình “Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi”
Trong bài thơ: mười lần tác giả nhắc đến bếp lửa và hiện diện cùng bếp lửa là hình ảnh người bà, cũng là tiêu biểu cho hình ảnh người phụ nữ Việt Nam với vẻ đẹp tảo tần, nhẫn nại và đầy yêu thương.
Hình ảnh bếp lửa được nâng lên thành ngọn lửa trong suy tưởng của nhà thơ:
“Rồi sớm rồi chiều, lại bếp lửa bà nhen,Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn,Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng…”
Nhà thơ đã nhận ra một điều sâu xa: bà nhóm lên bếp lửa bằng chính ngọn lửa trong lòng mình – ngọn lửa của sức sống, niềm yêu thương, niềm tin mãnh liệt. Bởi thế, hình ảnh bếp lửa mang ý nghĩa biểu tượng sâu sắc: Người bà không chỉ là người nhóm lửa, giữ lửa mà còn là người truyền lửa – ngọn lửa của sự sống, của niềm tin cho các thế hệ mai sau.
Hình ảnh bếp lửa là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo, có giá trị thẩm mĩ cao: vừa cụ thể, chân thực vừa mang ý nghĩa biểu tượng, góp phần thể hiện chiều sâu triết lí thầm kín của bài thơ: những gì thân thiết nhất của tuổi thơ đều có sức mạnh nâng đỡ con người suốt cuộc đời.
Tình cảm yêu quý, biết ơn đối với người bà chính là biểu hiện cụ thể của tình yêu thương, sự gắn bó với gia đình, quê hương, điểm khởi đầu của tình yêu đất nước.
Bài thơ khiến người đọc xúc động bởi tình cảm bà cháu chân thành, thắm thiết.
Từ những suy ngẫm của người cháu về hình ảnh bếp lửa và tình bà, bài thơ biểu hiện một triết lí sâu sắc: Những gì thân thiết nhất của tuổi thơ mỗi người đều có sức tỏa sáng, nâng bước con người trong suốt hành trình dài rộng của cuộc đời. Tình yêu đất nước bắt nguồn từ lòng yêu quý ông bà, cha mẹ, từ những gì gần gũi và bình dị nhất.
************
Trên đây là 4 bài mẫu về viết một đoạn văn nêu cảm nghĩ của em về hình ảnh bếp lửa trong bài thơ Bếp Lửa cùng 5 bài văn mẫu Cảm nhận hình ảnh bếp lửa trong bài thơ Bếp lửa hy vọng sẽ là nguồn tài liệu hữu ích để em có thêm nhiều ý tưởng mới để hoàn thiện bài viết của mình. Thầy cô hy vọng sẽ giúp em rèn luyện kĩ năng viết nhằm học tốt môn Văn.