Tứ cố vô thân là gì?
Thành ngữ này là một tập hợp gồm các yếu tố Hán: tứ (bốn), cố (nhìn, ngoảnh), vô (không có), thân (thân thích).Những ai không có cha mẹ, anh em, bà con, không có bạn bè thân thích, không nơi nương tựa, sống cô độc một mình đều được gọi là người tứ cố vô thân:
Tứ cố vô thân không chỉ nói về những cuộc đời, những số phận, những con người bất hạnh, trơ trọi một mình giữa cuộc sống không cha không mẹ, không thân thích bạn bè mà còn được dùng để nói về những vùng xa lạ, nơi “đất khách quê người”.
Câu chuyện về sự quan tâm của Bác Hồ đến những người tứ cố vô thân
Tết Nguyên Đán 1962 một tháng trước tết, Bác Hồ gọi cục phó Cục Cảnh vệ Phan Văn Xoàn lên giao một nhiệm vụ đặc biệt mà chỉ có hai bác cháu biết: “Chú tìm cho bác một gia đình nghèo nhất ở Hà Nội, bác sẽ đi thăm họ lúc giao thừa!”.
Tôi có một tháng để đi khắp Hà Nội tìm cho ra một người nghèo nhất
Hà Nội ngày ấy không giàu, nhưng để tìm ra người “nghèo nhất” vẫn là một thách đố đặc biệt. Tôi liên hệ nhiều nơi, gặp nhiều người vẫn chưa xác định được ai “nghèo nhất”. Cho đến một ngày, một anh công an địa bàn gọi bảo tôi thử tới thăm một người phụ nữ gánh nước thuê ở khu vực anh.
Chúng tôi ghé vào một ngõ sâu trên phố Hàng Chĩnh, đó là một ngôi nhà tăm tối, phên liếp tạm bợ, bên trong chỉ có một chiếc giường tre và vài ghế gỗ lăn lóc. Bàn thờ lạnh tanh hương khói, mạng nhện bao phủ – dù đang là những ngày giáp tết. Có bốn đứa trẻ đang nằm ngồi vật vạ chờ mẹ mang gạo về. Chúng đói. Chủ ngôi nhà ấy là một người phụ nữ ngoài 40 tuổi, tên Nguyễn Thị Tín, góa chồng. Chị vốn là công nhân thất nghiệp và từ lâu nay sống bằng nghề gánh nước thuê. Với chị, tương lai và sự nghiệp của gia đình chỉ là con số 0.
Tôi báo cáo rằng nhiệm vụ Bác giao tôi đã làm xong. Bác gật đầu.
Tối giao thừa ấy, như thường lệ, Bác Hồ đi với đại diện Thành ủy Hà Nội thăm vài gia đình trong kế hoạch. Khoảng 11 giờ tối, Bác nháy mắt với tôi ngụ ý: giờ đến chương trình của hai bác cháu mình.
Chúng tôi tách đoàn, gồm năm người: Bác, người thư ký, một cán bộ địa phương, tôi và một vệ sĩ khác – cùng hướng về phố Hàng Chĩnh. Bác mặc áo bông, quần vải gụ, đi dép cao su, đội mũ len đen và quấn khăn choàng cổ. Không hóa trang nhưng phải nhìn kỹ một tí mới nhận ra Bác được.
Xe dừng ngoài ngõ cách 200 mét, cả đoàn phải đi bộ vào. Tôi đi trước, gần giờ giao thừa, hương đèn thắp sáng trên mọi bàn thờ. Con hẻm thật vắng và từ đằng xa, tôi thấy bóng chị Tín đang quảy đôi quang gánh đi ngược ra ngoài phố. Ngang mặt, tôi đứng lại và hỏi nhỏ: “Chị Tín phải không?”. “Vâng ạ!”. “Sắp giao thừa chị còn đi đâu?”. “Tôi tranh thủ gánh thêm vài gánh lấy ít tiền mua quà bánh tết cho các cháu, anh ạ!”. “Chị về đi, có khách ghé thăm!”.
Người phụ nữ nghèo khổ xoay người lại nhìn những vị khách, rồi chị bàng hoàng buông rơi đôi quang gánh, chạy bổ tới, quì xuống, ôm choàng lấy chân vị lãnh tụ rồi khóc nấc lên: “Trời, sao Bác lại đến thăm nhà cháu?”. Bác Hồ rưng nước mắt: “Nhà cháu mà không đến thì đến nhà ai!”. Mọi người im lặng. Tôi, thêm một lần nữa, ngước nhìn vị lãnh tụ đất nước mình, thấy Người cao hơn tất cả.
Vào nhà, chúng tôi chia nhau thắp nhang đèn, bày quà bánh Bác dặn mang theo, chia một ít cho bốn đứa trẻ đang ngồi chờ mẹ trên chõng tre giữa nhà. Căn nhà bừng sáng, Bác quay sang hỏi về những đứa trẻ: Các cháu có đi học không? Chị Tín ngập ngừng: “Thưa, có ạ, nhưng thất thường lắm, ngày có ngày không. Chồng mất, cháu thất nghiệp, gánh nước thuê…”. Hỏi: Gánh nước thuê có đủ sống không? Ðến đây thì chị òa khóc: “Lo cái ăn từng ngày thôi, thưa Bác!”. “Giờ cháu có muốn làm việc không?”. “Thưa Bác, hoàn cảnh cháu thì không biết nói sao nữa, cháu muốn có chỗ làm để nuôi con, nhưng tứ cố vô thân, ai nhận cháu?”. Bác gật đầu không nói gì
Gần 12 giờ, mọi người chúc tết chị Tín và ra về. Lúc này ngoài đầu ngõ, tin Bác Hồ đến thăm nhà mẹ góa con côi của chị Tín đã bất ngờ lan truyền. Hàng xóm rủ nhau khoảng mấy chục người dân đứng chật trong ngõ chờ Bác ra. Tôi hơi bối rối. Bất thình lình Bác bước lại phía mọi người, tiếng vỗ tay vang lên.
Chờ mọi người im lặng, Bác nói: “Bữa nay Bác vui vì tình cờ gặp các cụ, các cô chú, nhưng Bác cũng rất buồn vì mới từ nhà cô Tín ra. Giờ này sắp giao thừa, các cô chú có biết cô Tín còn đi gánh nước thuê không? Tại sao cả một khu phố vầy mà không thấy ai quan tâm đến một gia đình như cô Tín?”. Im lặng, một đại diện khu phố nhận lỗi, hứa sẽ quan tâm nhà chị Tín. Bác tiếp tục: “Bác muốn nói về tinh thần “lá lành đùm lá rách” trong khu phố, nhưng cái lớn nhất vẫn là trách nhiệm của Chính phủ…”.
Bước lên xe, đó là năm đầu tiên tôi thấy đi chúc tết người dân về mà Bác thật buồn. Người quay sang nói: “Các chú thấy chưa? Hôm nay mình đã đi đúng người thật việc thật rồi, nếu mà mình báo trước với thành phố, hỏi nhà nào nghèo nhất thì chắc chắn không phải là nhà cô Tín rồi…”.
Về nơi Bác ở, Bộ Chính trị đã tập họp để chúc tết Bác và cùng đón giao thừa. Bác ngồi vào ghế, mọi người ngồi xung quanh. Bác im lặng tí rồi nói từ từ: “Bữa nay tôi có một chuyến thăm một nhà nghèo nhất thủ đô Hà Nội. Cô Tín, chủ nhà, giờ này còn phải đi gánh nước thuê để có tiền mai mua gạo cho con. Chúng ta đã quá quan liêu để không biết những câu chuyện như vậy ở ngay tại thủ đô đất nước mình. Tôi biết không chỉ có một nhà như chị Tín đâu, người nghèo còn nhiều. Một đảng cầm quyền mà để người dân mình nghèo hết còn chỗ để nghèo thì đó là lỗi của Ðảng với nhân dân…”.
Trong đời, tôi có một thập niên làm cận vệ Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Câu chuyện chị Tín chỉ là một trong những câu chuyện tôi không thể nào quên.
Không quên, vì tôi còn theo dõi cho đến khi chị Tín được bố trí một việc làm phù hợp. Không quên, vì câu chuyện ấy cũng chỉ là một trong nhiều chuyến “vi hành” mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã âm thầm đến với những người dân nghèo trong những ngõ ngách của thủ đô Hà Nội và các tỉnh thành của miền Bắc thời bấy giờ.
Không quên, vì tôi nghiệm ra ý nghĩa lớn lao nhất của lãnh tụ gửi gắm với mình: “Khi tôi báo cáo Bác đã tìm ra được gia đình nghèo nhất Hà Nội cho Bác, Bác hỏi tôi có biết tại sao phải tìm nhà nghèo nhất? Rồi Người tự trả lời: “Tại Bác muốn nhìn thấy sự thật. Nếu để thành ủy sắp xếp năm nào cũng thấy toàn cái tốt. Những nhà Bác ghé đều là những ngôi nhà khá giả, sạch sẽ, quà bánh sẵn sàng. Vui nhưng không thể hài lòng vì biết mọi người đã được sắp xếp!”.
Té ra, điều mà Người cần tìm trong dịp tết ấy chính là một sự thật đúng với ý nghĩa của nó: sự thật của những người nghèo!
Nhà văn Mỹ Saul Bellow thành danh từ tứ cố vô thân
Tỉnh táo tới phút cuối cùng. Khi hấp hối có vợ và cô con gái 6 tuổi liền kề. Không nhiều nhà văn được một hạnh phúc như nhà văn Mỹ Saul Bellow (tên họ gốc là Solomon Bellows), giải Nobel văn học năm 1976. Ông qua đời ngày 5/4/2005 tại Brooklyn, bang Massachusetts, thọ 90 tuổi.
Bellow sinh ngày 10/7/1915, tại thành phố Lachine thuộc Quebec, Canada, trong một gia đình người Do Thái di cư từ Saint Petersburg (Nga) tới. Năm lên 9 tuổi, gia đình ông chuyển sang Mỹ sống. Mặc dù gặp nhiều khó khăn về kinh tế nhưng cha mẹ ông đã cố gắng cho con trai mình có được một học vấn đàng hoàng và năm 1937, ông đã tốt nghiệp trường đại học Tây Bắc ở Chicago. Học đường này về sau rất gắn bó với ông và ông đã nhiều năm giảng dạy tại đây. Chỉ tới năm 1993, ông mới bất ngờ chuyển sang làm việc cho trường Đại học Tổng hợp Boston.
Hoàn cảnh xuất thân đã in hằn dấu ấn lên mọi sáng tác của Bellow. Các cuốn sách của ông luôn mang một trạng thái tha hương, tha nhân khắc khoải và xót xa của trí thức gốc Do Thái. Ông bắt đầu nghề chữ nghĩa bằng những bài điểm sách cho các báo với nhuận bút khá bèo: 10 USD một bài. Rồi từ đó, ông mon men bước vào làng văn và được đánh giá cao ngay từ tác phẩm đầu tay Tứ cố vô thân (có người dịch là “Con người giữa trời và đất”), xuất bản năm 1944. Nhân vật chính trong sách của ông mang màu sắc hiện sinh với tâm trạng luôn luôn bất ổn, giống như trong sách của Dostoyevsky hay Kafka…
Tác phẩm mang lại sự nổi tiếng rộng rãi cho ông là cuốn Những cuộc phiêu lưu của Augie March – cũng nhờ cuốn sách này mà ông lần đầu được nhận giải thưởng văn học quốc gia Mỹ. Ông còn được nhận thêm giải thưởng này hai lần nữa vào năm 1965 (với tác phẩm Hersog) và năm 1971 (với tác phẩm Hành tinh của ông Sammler (cho tới nay, ông là nhà văn Mỹ duy nhất giữ kỷ lục “quá tam ba bận” này). Năm 1976, Bellow được trao giải thưởng Nobel về văn học. Cùng năm, ông còn được nhận giải thưởng Pulitzer về văn học nhờ tiểu thuyết “Năng khiếu của Humboldt”. Bellow còn là tác giả của không chỉ một vở kịch và tiểu luận được giới trí thức đánh giá cao. Cho tới cuối đời, Bellow vẫn không rời trang viết. Năm 2000, ông còn cho ra mắt một cuốn tiểu thuyết với nhan đề Ravelstein.
Ông được các nhà phê bình xếp hạng đầu bảng như một chuyên gia của những câu văn ngắn và hình thức đồ sộ. Tác phẩm được coi là có giá trị nhất của ông, từng mang lại cho ông giải Nobel văn học, Hersog, kể về thân phận của một trí thức Do Thái không tìm ra vị trí đích thực của mình trong một thế giới đen bạc tư bản chủ nghĩa. Các nhà phê bình cho rằng, tác phẩm này in đậm dấu ấn đời thực của chính nhà văn.
Bellow năm lần lấy vợ. Ông được bốn người con. Cô con gái út Naomi sinh ra khi Bellow đã 84 tuổi.
Khi hay tin ông qua đời, Chủ tịch trường Đại học Tổng hợp Boston, Emeritus John Silber, người năm 1993 đã mời Bellow tới đây giảng dạy, đã nói: “Bellow không chỉ là một nhà văn vĩ đại, mà còn là một người thầy và một người bạn tuyệt vời – một nhân cách hoàn thiện rất đáng nể trọng”. Còn Philip Roth, một trong những nhà văn lớn nhất nước Mỹ đang còn sống hiện nay, đã nói sau khi hay tin Bellow mất rằng, toàn bộ nền văn học Mỹ thế kỷ XX đã được đặt trên hai vĩ nhân, đó là William Faulkner và Saul Bellow
********************