Tứ đại mỹ nhân Việt Nam gồm những ai?
Tứ đại mỹ nhân Việt Nam thời phong kiến
Họ là các bậc mỹ nhân, nhan sắc tuyệt trần, cầm kì thi họa nổi bật. Hơn thế, họ còn góp phần to lớn trong việc hưng, vong của 1 vương triều.
Công chúa Huyền Trân
Huyền Trân Công Chúa (1287 – 1340), là một công chúa đời nhà Trần, con gái của vua Trần Nhân Tông và là em gái vua Trần Anh Tông.
Vào năm 1293, Trần Nhân Tông sau khi truyền ngôi cho con, lui về làm Thái thượng hoàng, Ngay sau đó, Thái thượng hoàng nhận được lời mời du ngoạn đến Chiêm Thành, để duy trì mối quan hệ hòa hiếu với Chiêm Thành, Trần Nhân Tông đã hứa gả công chúa Huyền Trân cho vua Chiêm là Chế Mân và đòi sính lễ là hai châu Ô, Lý.
Nhưng công chúa Huyền Trân lấy chồng vừa được một năm thì Chế Mân chết, hoàng hậu theo tục lệ phải lên giàn thiêu chết cùng vua. Sợ em gái bị tổn thương, Trần Anh Tông sai Trần Khắc Chung tới Chiêm Thành cứu Huyền Trân về. Trần Khắc Chung vờ sang viếng tang, tìm cách cứu Huyền Trân.
Trần Khắc Chung bày kế thành công, cứu được Huyền Trân đưa xuống thuyền về Đại Việt bằng đường biển. Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư ghi lại Huyền Trân và Trần Khắc Chung lại có một mối tình tuyệt đẹp khi con thuyền lênh đênh trên biển suốt hơn một năm trời.
Khi Huyền Trân về đến Thăng Long. Theo di mệnh của Thượng hoàng Nhân Tông, công chúa đầu gia Phật giáo ở núi Trâu Sơn (nay thuộc Bắc Ninh) vào năm 1309, dưới sự ấn chứng của quốc sư Bảo Phát.
Công chúa Huyền Trân mất ngày mồng 9 tháng giêng năm Canh Thìn (1340). Dân chúng quanh vùng thương tiếc và tôn bà là “Thần Mẫu” và lập đền thờ cạnh chùa Nộn Sơn.
Các triều đại sau đều sắc phong bà là thần hộ quốc. Vua triều Nguyễn ban chiếu đền ơn công chúa “trong việc giữ nước giúp dân, có nhiều linh ứng”, nâng bậc tăng là “Trai Tĩnh Trung Đẳng Thần”.
Công chúa An Tư
An Tư công chúa, còn gọi là Thiên Tư công chúa hay An Tư Thái trưởng công chúa, là một trong 2 vị công chúa nổi tiếng nhất lịch sử nhà Trần vì các cuộc hôn nhân mang tính trọng đại, cùng với Huyền Trân công chúa.
Theo sử sách chép lại, công chúa là con gái út của Trần Thái Tông. Theo thân phận, công chúa là em gái của Trần Thánh Tông và là cô ruột của Trần Nhân Tông. Bà nổi tiếng trong việc kết hôn với Trấn Nam vương Thoát Hoan, giữ cho quân Trần rút lui an toàn trong Chiến tranh Nguyên Mông-Đại Việt lần 2 vào năm 1285. Kết cục của bà đến bây giờ vẫn là đề tài bàn luận của các sử gia.
Cuộc đời của công chúa An Tư được ghi chép rất ít, Đại Việt Sử Ký Toàn Thư của Ngô Sĩ Liên chỉ ghi: “Tháng 2 (Ất Dậu)… sai người đưa công chúa An Tư (em gái út của Thánh Tông) đến cho Thoát Hoan, là muốn làm thư giãn loạn nước vậy.”
Việt sử tiêu án của Ngô Thì Sĩ cũng chỉ sơ lược: “Thoát Hoan lên sông Nhĩ Hà, cột liền bè vào làm cầu, cho quân qua sông, quân ta theo hai bên sông lập đồn để cự lại, không được, ngày đã về chiều, quân giặc qua được sông vào kinh thành, vua sai đưa Thiên Tư Công chúa cho chúng, để thư nạn cho nước.”
Đầu năm Ất Dậu (1285), quân nhà Nguyên đã đánh tới Gia Lâm vây hãm Thăng Long. Thượng hoàng Thánh Tông và vua Nhân Tông đã đi thuyền nhỏ ra vùng Tam Trĩ, còn thuyền ngự thì đưa ra vùng Ngọc Sơn để đánh lạc hướng đối phương. Nhưng quân Nguyên vẫn phát hiện ra. Ngày 9.3 cùng năm, thủy quân Nguyên đã bao vây Tam Trĩ suýt bắt được hai vua.
Chiến sự buổi đầu bất lợi, tướng Trần Bình Trọng lại hy sinh ở bờ sông Thiên Mạc. Trước thế mạnh của đối phương, nhiều tôn thất nhà Trần như Trần Kiện, Trần Lộng, kể cả hoàng thân Trần Ích Tắc đều quy hàng. Chi hậu cục thủ Đỗ Khắc Chung được sai đi sứ để làm chậm tốc độ tiến quân của Nguyên, nhưng không có kết quả.
Trong lúc đó, cần phải có thời gian để củng cố lực lượng, tổ chức chiến đấu, bởi vậy, Thượng hoàng Trần Thánh Tông bất đắc dĩ phải dùng đến kế mỹ nhân, tức sai người dâng em gái út của mình cho tướng Thoát Hoan để tạm cầu hòa
Sau, quân Trần bắt đầu phản công, quân Nguyên đại bại. Trấn Nam vương Thoát Hoan, con trai của Hốt Tất Liệt đã phải “chui vào cái ống đồng để lên xe bắt quân kéo chạy” và phương Bắc..
Chiến thắng, hoàng tộc Trần làm lễ tế lăng miếu, khen thưởng công thần, nhưng không ai nói đến An Tư công chúa. Không rõ công chúa còn hay mất, được mang về Trung Quốc hay đã chết trong đám loạn quân.
Trong cuốn An Nam chí lược của Lê Tắc, một thuộc hạ của Trần Kiện theo chủ chạy sang nhà Nguyên, sống lưu vong ở Trung Quốc có ghi: “Trước, Thái tử (chỉ Thoát Hoan) lấy người con gái nhà Trần sinh được hai con”. Người con gái họ Trần này có thể là công chúa An Tư, tuy nhiên chưa có chứng cứ rõ ràng khẳng định điều này.
Công chúa Ngọc Hân
Lê Ngọc Hân (1770-1799) còn gọi Ngọc Hân công chúa hay Bắc Cung Hoàng hậu là công chúa nhà Hậu Lê và hoàng hậu nhà Tây Sơn trong lịch sử Việt Nam, vợ của vua Quang Trung (Nguyễn Huệ).
Lê Ngọc Hân sinh ngày 27.4 năm Canh Dần (1770) tại kinh thành Thăng Long . Bà là con gái thứ 9 của vua Lê Hiển Tông. Mẹ bà là Chiêu nghi Nguyễn Thị Huyền, là người xã Phù Ninh, tổng Hạ Dương, phủ Từ Sơn – Bắc Ninh (nay là xã Ninh Hiệp,Gia Lâm, Hà Nội), và là con gái trưởng của ông Nguyễn Đình Giai.
Tháng 5.1786, tướng nhà Tây Sơn là Nguyễn Huệ ra Bắc với chiêu bài “phù Lê diệt Trịnh”. Diệt xong họ Trịnh, Nguyễn Huệ tới yết kiến vua Hiển Tông. Do sự mai mối của tướng Bắc Hà vào hàng Tây Sơn là Nguyễn Hữu Chỉnh, Ngọc Hân vâng mệnh vua cha kết duyên cùng Nguyễn Huệ. Khi đó bà mới 16 tuổi, còn Nguyễn Huệ 33 tuổi.
Năm 1788, Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng đế trước khi ra Bắc lần thứ ba để diệt quân Thanh, lấy niên hiệu Quang Trung, phong Ngọc Hân làm Hữu Cung Hoàng hậu. Năm 1789, sau khi đại thắng quân Thanh, Nguyễn Huệ lại phong bà làm Bắc Cung Hoàng Hậu. Bà có 2 con với Nguyễn Huệ là công chúa Nguyễn Ngọc Bảo và hoàng tử Nguyễn Quang Đức.
Năm 1792, Quang Trung đột ngột qua đời, Quang Toản là con bà Chính cung hoàng hậu Phạm Thị Liên (Bùi Thị Nhạn) lên thay, tức là Cảnh Thịnh đế. Theo bài “Danh nhân Lê Ngọc Hân” của Chu Quang Trứ, Lê Ngọc Hân đưa con ra khỏi cung điện Phú Xuân, sống trong chùa Kim Tiền (Dương Xuân ở Huế) cạnh điện Đan Dương để thờ chồng nuôi con. Bà gượng sống đến ngày mồng 8.11 năm Kỷ Mùi (4.12.1799) thì mất, lúc đó mới 29 tuổi.
Ngày 18.11 năm Tân Dậu (23.12.1801), hoàng tử Nguyễn Quang Đức mất khi mới 10 tuổi, rồi ngày 17.4 năm Nhâm Tuất (18.5.1802), công chúa Ngọc Bảo cũng mất khi mới 12 tuổi.
Lý Chiêu Hoàng
Lý Chiêu Hoàng (1218 -1278), còn gọi là Lý Phế hậu hay Chiêu Thánh hoàng hậu, vị Hoàng đế thứ 9 và cuối cùng của triều đại nhà Lý từ năm 1224 đến năm 1225.
Trong lịch sử Việt Nam, bà là vị Nữ hoàng đầu tiên và duy nhất, đặc biệt hơn là được chính Phụ hoàng Lý Huệ Tông ra chỉ truyền ngôi, dù bên trong là sự sắp đặt đầy cưỡng ép của Điện tiền chỉ huy sứ Trần Thủ Độ, hiện đang nắm quyền lực trong triều.
Năm 1225, Chiêu Hoàng được Trần Thủ Độ sắp xếp nhường ngôi cho Trần Thái Tông, triều đại nhà Lý cai trị Đại Việt hơn 200 năm đã chính thức kết thúc. Sau khi nhượng vị, Chiêu Hoàng trở thành Hoàng hậu của Thái Tông cho đến khi bị phế truất vào năm 1237, vì bấy giờ bà không sinh được con nối dõi. Hiển Từ Thuận Thiên hoàng hậu, người kế vị ngôi Hoàng hậu sau đó, chính là chị ruột của bà.
Sau năm 1258, bà tái giá lấy Lê Phụ Trần, một viên tướng có công cứu giúp Thái Tông. Hai người sống với nhau hơn 20 năm và sinh được 1 trai, Thượng vị hầu Lê Tông và 1 gái, Ứng Thụy công chúa Ngọc Khuê. Bà qua đời ngay sau Thái Tông khoảng 1 năm.
Như một cách tôn vinh những nhan sắc Việt nổi tiếng một thời: Hoàng hậu Nam Phương, nghệ sĩ Thanh Nga, Thẩm Thúy Hằng và hoa hậu đầu tiên của Việt Nam: Công Thị Nghĩa, TNTS dựng lại chân dung của “tứ đại mỹ nhân” với sự tham gia của Á hậu Dương Trương Thiên Lý – cũng là một nhan sắc nổi bật của Việt Nam thời hiện đại.
Tứ đại mỹ nhân Việt Nam thời hiện đại
Hoàng hậu Nam Phương
Không chỉ xinh đẹp, đài các, hoàng hậu cuối cùng của các triều đại phong kiến Việt Nam còn là người xuất thân từ gia đình quý tộc và có học thức cao. Trước khi lên ngôi hoàng hậu năm 19 tuổi, bà có khuê danh Nguyễn Hữu Thị Lan và từng 3 năm liền đoạt giải Hoa hậu Đông Dương.
Trong bài là bức ảnh hoàng hậu trong bộ Âu phục của thập niên 1950. Phong cách trang điểm đặc trưng của thời kỳ này là cổ điển, quyến rũ nhưng rất chuẩn mực, không quá nhẹ nhàng nhưng cũng không quá lộng lẫy. Chân mày là điểm được chú ý nhất với phái đẹp thời kỳ này. Hoàng hậu Nam Phương có chân mày đặc trưng là mỏng, được định hình rõ ràng. Màu môi không quá nổi bật nhưng đủ tôn vinh được khuôn miệng đẹp của bậc mẫu nghi thiên hạ. Mái tóc uốn xoăn vào nếp, bồng bềnh là mẫu phổ biến của phụ nữ thập niên 1950, cổ điển và gợi cảm. Phong cách quý phái còn được nhấn mạnh bằng kiểu mũ hoàng gia cùng tông màu trang sức, đính lệch một bên tóc. Vẻ ngoài trở nên hoàn hảo khi kết hợp trang sức là chuỗi ngọc trai quấn nhiều vòng, hoa tai đồng bộ và brooch cài áo hình bông hoa đầy tinh tế.
Hoa hậu Thu Trang
Nhan sắc một thời này còn được biết đến là “hoa hậu Thu Trang” – một điệp viên, nhà báo và là hoa hậu đầu tiên của Việt Nam. Sau này, bà nổi tiếng với vai trò của một tiến sĩ sử học hơn là hoa hậu. Trong một lần đi lấy tin để viết bài về cuộc thi hoa hậu năm 1955, bà được một số người khuyên đăng ký tham gia cuộc thi này và đã bất ngờ giành ngôi vị cao nhất. Sự nghiệp mới mở ra khi bà nhận được nhiều lời mời đóng phim. Nổi bật nhất là vai Kiều Nguyệt Nga trong phim Lục Vân Tiên của đạo diễn Tống Ngọc Hạp.
Trước khi trở thành hoa hậu, người phụ nữ tài sắc sinh năm 1932 đã nức tiếng là một trong những tuyệt sắc giai nhân – của đất Hà thành. Sau này, bà sang Pháp học lấy bằng tiến sĩ và định cư tại đây nhưng vẫn thường xuyên về Việt Nam giảng dạy cho sinh viên các trường đại học.
Đây là bức ảnh hoa hậu Thu Trang trên bìa tạp chí Màn Ảnhsố đầu tiên của năm 1955 với phong cách làm đẹp đặc trưng của phụ nữ thời kỳ này: cổ điển và quyến rũ. Chân mày đậm, cao được chăm chút nổi bật nhất. Đôi mắt được nhấn màu ở phần đuôi để tạo độ sâu và cuốn hút. Màu son đậm cũng là một điểm nhấn tạo nên vẻ đẹp tổng thể đầy quyến rũ.
Mái tóc uốn xoăn lọn to, chải bồng bềnh ở phần mái. Phần tóc phía sau được búi gọn gàng để khoe được phần cổ và bờ vai thanh tú. Trang sức chính là điểm nhấn cuối cùng, góp phần giúp người đẹp thêm phần sang trọng và quyến rũ đến khó cưỡng.
Thẩm Thúy Hằng
Đây là ngôi sao sáng nhất của nền điện ảnh thương mại Việt Nam thập niên 1950 – 1970. Không chỉ ở phạm vi trong nước, tên tuổi của Thẩm Thúy Hằng còn vươn ra thế giới với nhiều hợp đồng điện ảnh thành công ở Indonesia, Philippines, Thái Lan, Hồng Kông, Đài Loan, Nhật Bản… “Nữ hoàng sân khấu đèn màu” còn được xem như một hiện tượng về nhan sắc với đôi mắt to tròn, môi trái tim, sống mũi thon và đặc biệt là vòng eo rất nhỏ so với tỷ lệ cơ thể. Vẻ đẹp khuynh đảo của bà ở thời hoàng kim đã trở thành tiêu chuẩn sắc đẹp cho phụ nữ lúc bấy giờ.
Trong bức ảnh này, Thẩm Thúy Hằng thể hiện rõ hình mẫu của vẻ đẹp phụ nữ thập niên 1960. Đôi mắt được trang điểm nổi bật với eyeliner vẽ dày, đậm. Thậm chí, chì kẻ mắt được dùng để vẽ lên cả bầu mắt. Chân mày cũng được định hình rõ nét và đậm màu. Thời kỳ mi giả và mascara được tận dụng tối đa trong kỹ thuật trang điểm trên gương mặt Thẩm Thúy Hằng, tạo thành “đôi mắt búp bê” như Twiggy huyền thoại. Màu môi hồng nhạt giúp khuôn mặt được cân bằng khi mắt đã được chăm chút quá nổi bật.
Mái tóc được đánh phồng, búi gọn phía sau, làm tăng vẻ sang trọng, quý phái. Thêm một nét đặc trưng ở kiểu tóc của Thẩm Thúy Hằng là phần mai luôn được vấn kỹ càng để tạo độ cong như điểm nhấn duyên dáng một bên mặt. Trang sức nổi bật là đôi hoa tai dạng hạt đính sát tai.
Nghệ sĩ Thanh Nga
Bà được mệnh danh là “nữ hoàng sân khấu” nức tiếng một thời với vẻ đẹp sang trọng, quý phái và đậm chất Á Đông. Nữ nghệ sĩ tài sắc vẹn toàn này còn được xem là hình mẫu về vẻ đẹp của nhiều phụ nữ Việt Nam lúc bấy giờ với lời so sánh: “Đẹp như nghệ sĩ Thanh Nga”. Ngay từ năm 13 tuổi, bà đã sớm bộc lộ năng khiếu về nghệ thuật cùng nhan sắc rực rỡ không cần đợi tuổi. Năm 1978, ở tuổi 36, bà đã bị sát hại cùng với chồng sau một đêm diễn trở về, khi sự nghiệp đang ở đỉnh cao.
Đây là một trong những bức ảnh đẹp nhất của nghệ sĩ Thanh Nga với phong cách đặc trưng của thập niên 1960: áo dài hoa nổi bật, kết hợp trang sức là hoa tai và vòng cổ. Điểm nhấn mạnh mẽ nhất của phong cách trang điểm ở thập niên này là ở đôi mắt: eyeliner được vẽ dày, đậm để làm nổi bật đôi mắt to tròn. Mi giả và mascara cũng được tận dụng tối đa. Với đôi mắt đã quá nổi bật, màu môi sẽ được chọn tông nhạt để cân bằng với tổng thể gương mặt.
Kiểu tóc đánh phồng ở phần mái, chải ngược ra phía sau theo kiểu nửa đầu, còn phần đuôi uốn lọn mềm mại là mẫu đặc trưng của phụ nữ thập niên 1960. Mái tóc của nghệ sĩ Thanh Nga còn được điểm xuyết thêm chiếc cài dạng lược kiểu đính ngọc trai để thêm nổi bật, rạng rỡ.
********************