Vi phạm pháp luật là gì?
Vi phạm pháp luật là hành vi trái pháp luật và có lỗi, do chủ thể có năng lực trách nhiệm pháp lý thực hiện, xâm hại đến các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ.
Vi phạm pháp luật tiếng Anh là “Law violation”
Các dấu hiệu của vi phạm pháp luật:
Dấu hiệu hành vi: Vi phạm pháp luật phải là hành vi của con người, tức là xử sự thực tế, cụ thể của cá nhân hoặc tổ chức nhất định, bởi vì pháp luật được ban hành để điều chỉnh hành vi của các chủ thể mà không điều chỉnh suy nghĩ của họ. Mác đã từng nói: ngoài hành vi của tôi ra, tôi không tồn tại đối với pháp luật, không phải là đối tượng của nó. Vì vậy, phải căn cứ vào hành vi thực tế của các chủ thể mới có thể xác định được là họ thực hiện pháp luật hay vi phạm pháp luật. Hành vi xác định này có thể được thực hiện bằng hành động (ví dụ: Giết người, gây thương tích….) hoặc bằng không hành động (ví dụ: trốn tránh nghĩa vụ nộp thuế).
Dấu hiệu trái pháp luật:
Vi phạm pháp luật là hành vi trái với các quy phạm của pháp luật, xâm hại tới các quan hệ xã hội được pháp luật xác lập và bảo vệ
– Một hành vi được coi là trái pháp luật khi nó không phù hợp với các quy định của pháp luật, xâm hại tới quyền của công dân, tài sản của Nhà nước….Thông thường, một người không phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi của mình nếu hành vi đó chưa được pháp luật quy định. Sự quy định của pháp luật là cơ sở pháp lý để xác định tính trái pháp luật trong một hành vi cụ thể
– Hành vi của con người có thể được các quy phạm xã hội khác nhau cùng điều chỉnh
Dấu hiệu năng lực trách nhiệm pháp lý:
Hành vi trái pháp luật xác định do chủ thể có năng lực hành vi thực hiện. Người có năng lực hành vi là người có khả năng nhận thức, điều khiển được hành vi, việc làm của mình và chịu trách nhiệm về hành vi của mình đã thực hiện.
Dấu hiệu lỗi:
Vi phạm pháp luật là hành vi có lỗi của chủ thể.
Vi phạm pháp luật là hành vi trái pháp luật nhưng hành vi trái pháp luật đó phải chứa đựng lỗi của chủ thể của hành vi. Để xác định hành vi vi phạm pháp luật phải xem xét cả mặt chủ quan của hành vi, tức là xác định lỗi của học, biểu hiện trạng thái tâm lý của người thực hiện hành vi đó. Trạng thái tâm lý có thể là cố ý hay vô ý. Lỗi là yếu tố không thể thiếu được để xác định hành vi vi phạm pháp luật và lỗi cũng là cơ sở để xác định trách nhiệm pháp lý đối với chủ thể của hành vi vi phạm pháp luật.
Như vậy, chỉ những hành vi trái pháp luật mà có lỗi của chủ thể thì mới bị coi là vi phạm pháp luật. Còn trong trường hợp chủ thể thực hiện một xử sự có tính chất trái pháp luật nhưng chủ thể không nhận thức được hành vi của mình và hậu quả của hành vi đó gây ra cho xã hội hoặc nhận thức được hành vi và hậu quả của hành vi của mình nhưng không điều khiển được hành vi của mình thì không bị coi là có lỗi và không phải là vi phạm pháp luật.
Dấu hiệu quan hệ xã hội bị xâm hại:
Vi phạm pháp luật là hành vi xâm hại trực tiếp hoặc gián tiếp tới các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ, tức là làm biến dạng đi cách xử sự là nội dung của quan hệ pháp luật đó.
Phân loại vi phạm pháp luật:
Vi phạm pháp luật có thể được phân loại theo nhiều cách khác nhau dựa vào các tiêu chí phân loại khác nhau. Ví dụ, nếu căn cứ vào đối tượng và phương pháp điều chỉnh của pháp luật thì có thể chia vi phạm pháp luật thành các loại tương ứng với các ngành luật như vi phạm pháp luật hình sự, vi phạm pháp luật dân sự…
Trong khoa học pháp lý Việt Nam phổ biến là cách phân loại vi phạm pháp luật căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của vi phạm pháp luật. Theo tiêu chí này, vi phạm pháp luật được chia thành các loại sau:
– Vi phạm pháp luật hình sự (tội phạm): là hành vi nguy hiểm cho xã hội, được quy định trong bộ luật hình sự.
Ví dụ: Buôn bán ma túy, giết người,…
– Vi phạm pháp luật hành chính: Là hành vi xâm phạm các quy tắc quản lí của nhà nước mà không phải là tội phạm.
VD: Trốn thuế, làm hư hỏng thất thoát tài sản của nhà nước…
– Vi phạm pháp luật dân sự: Là hành vi trái pháp luật, xâm hại đến các quan hệ tài sản (quan hệ sở hữu, chuyển dịch tài sản…) và quan hệ pháp luật dân sự khác được pháp luật bảo vệ như quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp.
VD: Tranh chấp đất đai nhà cửa, thừa kế, di chúc…..
Xem thêm: Mua dao kiếm về treo trong nhà có vi phạm pháp luật?
– Vi phạm kỉ luật: Là những hành vi trái với những qui định, qui tắc, qui chế, xác định trật tự, kỉ luật trong nội bộ cơ quan, xí nghiệp, trường học.
VD: Cán bộ, công chức, viên chức làm sai thẩm quyền, không chấp hành đúng quy định lao động…
Phân tích các yếu tố cấu thành của vi phạm pháp luật
Mặt khách quan của vi phạm pháp luật
Mặt khách quan của vi phạm pháp luật là toàn bộ những biểu hiện ra bên ngoài thế giới khách quan, bao gồm các hành vi trái pháp luật, hậu quả của hành vi đó và những yếu tố như thời gian, địa điểm, cách thức, thủ đoạn, công cụ, phương tiện vi phạm pháp luật…
Hành vi trái pháp luật có thể thể hiện dưới dạng những hành động như đâm, chém người, trộm cắp tài sản, đi vào đường cấm, lạm quyền khi thi hành công vụ; có thể được thể hiện dưới dạng không hành động như không tố giác tội phạm, trốn tránh thực hiện nghĩa vụ quân sự…
Hậu quả là kết quả trực tiếp của hành vi hái pháp luật, đó là những thiệt hại xảy ra cho xã hội. Bất cứ vi phạm pháp luật nào cũng có thể gây ra hoặc đe dọa gây ra những hậu quả nhất định. Hậu quả của vi phạm pháp luật được biểu hiện qua sự biến đổi tình trạng bình thường của các quan hệ xã hội bị xâm hại. Hậu quả của vi phạm pháp luật có thể là những thiệt hại cụ thể, có thể định lượng được như thiệt hại về của cải vật chất, về tính mạng, sức khỏe của con người. Nó cũng có thể là những thiệt hại trừu tượng khó có thể lượng hoá một cách chính xác như thiệt hại về tinh thần của con người, tình trạng nguy hiểm cho đời sống… Hậu quả của vi phạm là cơ sở quan trọng để đánh giá mức độ nguy hiểm cho xã hội của vi phạm pháp luật.
Thời gian xảy ra vi phạm là thời điểm hoặc khoảng thời gian vi phạm pháp luật được thực hiện. Công cụ, phương tiện vi phạm pháp luật được hiểu là cái mà chủ thể sử dụng để thực hiện hành vi vi phạm, chẳng hạn như dao để chém người, xe máy để đi cưóp giật… Phương pháp, thủ đoạn là cách thức thực hiện hành vi vi phạm, bao gồm cách thức tiến hành hành vi, cách thức sử dụng công cụ phương tiện… Những yếu tố này cũng ít nhiều phản ánh tính chất nguy hiểm của vi phạm pháp luật.
Mặt chủ quan của vi phạm pháp luật
Mặt chủ quan của vi phạm pháp luật là toàn bộ diễn biến tâm lí của chủ thể khi vi phạm pháp luật bao gồm lỗi, động cơ và mục đích.
Lỗi phản ảnh thái độ tâm lí bên trong của chủ thể đổi với hành vỉ trái pháp luật và hậu quả của hành vỉ đổ, cho nên lỗi là yếu tố quan trọng phản ánh mức độ nguy hiểm của vi phạm pháp luật Có hai loại lỗi cơ bản là cố ý và vô ý; lỗi cố ý gồm cố ý trực tiếp và cố ý gián tiếp; lỗi vô ý gồm vô ý do quá tự tin và vô ý do cẩu thả.
+ Lỗi cổ ý trực tiếp có đặc trưng là chủ thể vi phạm nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả do hành vi của mình gây ra và mong muốn hậu quả đó xảy ra.
+ Lỗi cố ỷ gián tiếp có đặc trưng là chủ thể vi phạm nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả do hành vi của mình gây ra, nhưng có ý thức để mặc cho hậu quả đó xảy ra.
+ Lỗi vô ỷ vì quá tự tin có đặc trưng là chủ thể vi phạm gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội trong trường hợp nhận thấy trước hậu quả đó nhưng tin tưởng hậu quả đó không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được.
+ Lỗi vô ỷ do cẩu thả có đặc trưng là chủ thể vi phạm đã gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội trong trường hợp không nhận thấy trước được hậu quả đó mặc dù càn phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó.
Yếu tố cần phải thấy trước thể hiện ở chỗ người vi phạm có nghĩa vụ phải tuân thủ những quy tắc nhất định nhung do luộm thuộm, thiếu cẩn trọng, lơ đễnh, không tập trung, lơ là, tắc trách… nên đã không thực hiện những nghĩa vụ đó. Yếu tố có thể thấy trước thể hiện ở chỗ người vi phạm có đủ điều kiện khách quan và chủ quan (trình độ nhận thức, kinh nghiệm sống, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, thời gian, địa điểm, điều kiện, hoàn cảnh khách quan…) để có thể thấy trước khả năng xảy ra hậu quả trong hành vi của mình.
Động cơ vi phạm là động lực bên trong thúc đẩy chủ thể thực hiện hành vỉ vi phạm pháp luật. Chỉ những vi phạm pháp luật với lỗi cố ý mới có yếu tố động cơ, bởi vì người vi phạm pháp luật với lỗi vô ý, khi thực hiện hành vi họ không nhận thức trước hành vi của minh là vi phạm pháp luật hoặc hoàn toàn tin rằng hành vi của mình là không vi phạm pháp luật. Chẳng hạn, nhiều trường hợp vi phạm pháp luật, chủ thể có thể được thúc đẩy bởi động cơ như ghen tuông, đố kị, thù tức, tham lam, vụ lợi, sĩ diện…
Mục đích vi phạm pháp luật là kết quả trong ỷ thức mà chủ thế vi phạm pháp luật đặt ra và mong muốn đạt được khỉ thực hiện hành vi vi phạm pháp luật. Chỉ những vi phạm với lỗi cố ý trực tiếp mới có yếu tố mục đích, bởi vì chỉ trong trường hợp này, người vi phạm mới mong muốn đạt được kết quả nào đó bằng việc thực hiện hành vi vi phạm pháp luật, cần phân biệt mục đích vi phạm với hậu quả của vi phạm pháp luật. Hậu quả là kết quả xảy ra trên thực tế của hành vi vi phạm, còn mục đích là kết quả trong ý thức mà chủ thể mong muốn đạt được, nó nảy sinh trước khi thực hiện hành vi. Hậu quả xảy ra có thể trùng hợp với mục đích nhưng cũng có thể khác so với mục đích mà chủ thể mong muốn. Điều này là do những yếu tố khách quan và chủ quan chi phối quá trình thực hiện hành vi của chủ thể.
Chủ thể của vi phạm pháp luật
Chủ thể của vi phạm pháp luật là những cá nhân hay tổ chức có năng lực trách nhiệm pháp lí đã có hành vi vi phạm pháp luật. Năng lực trách nhiệm pháp lí của cá nhân được xác định trên cơ sở độ tuổi và khả năng nhận thức và điều khiển hành vĩ của họ. Mọi tổ chức hợp pháp đều có năng lực trách nhiệm pháp lí, năng lực trách nhiệm pháp lí của tổ chức được xác định trên cơ sở địa vị pháp lí của tổ chức đó. Pháp luật của các nhà nước khác nhau có thể có quy định khác nhau về năng lực trách nhiệm pháp lí cũng như cơ cấu chủ thể vi phạm pháp luật. Ở một số vi phạm pháp luật, chủ thể phải có những dấu hiệu hay điều kiện riêng. Trong những trường hợp này, chủ thể vi phạm pháp luật được gọi là chủ thể đặc biệt. Nếu không thỏa mãn những dấu hiệu hay điều kiện này thì chưa phải là vi phạm pháp luật trong trường hợp đó.
Khách thể của vi phạm pháp luật
Khách thể của vi phạm pháp luật là những quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ nhưng đã bị hành vi vi phạm pháp luật xâm hại. Khách thể là yếu tố quan ưọng phản ánh tính chất nguy hiểm của hành vi vi phạm pháp luật. Một vi phạm pháp luật có thể xâm hại một hoặc nhiều khách thể, chẳng hạn hành vi trộm cắp xâm phạm quyền sở hữu; hành vi cướp vừa xâm hại sức khoẻ, tính mạng con người, vừa xâm hại quyền sở hữu. cần phân biệt khách thể của vi phạm pháp luật với đối tượng tác động của vi phạm đó. Đối tượng tác động của vi phạm pháp luật là những bộ phận của khách thể, có thể là con người, các vật thể cụ thể, hoạt động của con người…
Ví dụ về cấu thành của vi phạm pháp luật:
Tình huống
– Tháng 9/2008, Bộ tài nguyên môi trường đã phát hiện ra vụ việc sai phạm của công ty Bột ngọt Vedan (Công ty TNHH Vedan Việt Nam).
– Theo đó thì công ty Vedan đã hằng ngày sả nước thải bẩn (chưa qua xử lý) trực tiếp ra sông Thị Vải (Đồng Nai) suốt 14 năm qua kể từ khi đi vào hoạt động (1994): khoảng 45000m3/1tháng.
– Hành động này gây ô nhiễm nặng cho dòng sông Thị Vải, gây chết các sinh vật sống ở sông này và ảnh hưởng trầm trọng đến sức khỏe người dân ven sông…
Cấu thành vi phạm pháp luật
– Chủ thể vi phạm:
Xem thêm: Ký hợp đồng bằng ngoại tệ có vi phạm pháp luật về ngoại hối không?
+ Công ty Vedan (thuộc Công ty TNHH Vedan Việt Nam) là một công ty thực phẩm với 100% vốn đầu tư Đài Loan.
+ Được xây dựng từ năm 1991.
+ Có giấy phép hoạt động từ năm 1994. Dẫn đến, là một tổ chức có đầy đủ trách nhiệm pháp lý khi thực hiện hành vi trái pháp luật này.
– Mặt chủ quan:
+ Lỗi: là lỗi cố ý gián tiếp. Vì, Công ty Vedan khi thực hiện hành vi này thì nhận thấy trước hậu quả, tuy không mong muốn nhưng vẫn để hậu quả xảy ra.
+ Mục đích: nhằm giảm bớt chi phí xử lý nước thải. Theo quy định thì công ty Vedan phải đầu tư khoảng 1 chục triệu để xử lý 1m3 dịch thải đậm đặc. Đáng ra phải chi từ 15%-20% vốn đầu tư cho việc xử lý nước thải thì Công ty Vedan chỉ dành 1,5% vốn cho việc đó.
– Khách thể:
Việc làm của công ty Vedan đã xâm hại đến các quy tắc quản lý nhà nước: vi phạm trật tự quản lý nhà nước, làm tổn hại đến các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ.
Xem thêm: Tình trạng vi phạm pháp luật của thanh niên Việt Nam hiện nay
– Mặt khách quan:
+ Hành vi nguy hiểm: sả nước thải bẩn chưa qua xử lý ra sông Thi Vải: 45000m3/1tháng. Đây là hành vi trái pháp luật hành chính.
+ Hậu quả: dòng sông bị ô nhiễm nặng, phá hủy môi trường sống và làm thủy sản chết hàng loạt, gây thiệt hại cho các hộ nuôi thủy sản và ảnh hưởng trầm trọng đến sức khỏe người dân sống ven sông. Những thiệt hại đó do hành vi trái pháp luật của công ty Vedan gây ra trực tiếp và gián tiếp.
+ Thời gian: 14 năm (từ năm 1994-2008).
+ Địa điểm: sông Thị Vải (thuộc địa phận tỉnh Đồng Nai, Bà Rịa-Vũng Tàu, Tp.Hồ Chí Minh).
+ Phương tiện: sử dụng hệ thống ống sả ngầm.
*******